|
|
|
|
|
Trong bối cảnh các doanh nghiệp đang đẩy mạnh chuyển đổi số để nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh, yếu tố quyết định thành công không nằm ở công nghệ, mà chính là đội ngũ nhân lực phù hợp và sẵn sàng thích ứng. Tuy nhiên, điểm yếu lớn nhất của lực lượng lao động Việt Nam hiện nay chính là thiếu hụt nguồn nhân lực, trình độ chuyên môn và kỹ năng còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế số. Tỷ lệ lao động có trình độ kỹ năng nhìn chung còn thấp. Theo báo cáo Tổng chỉ số nguồn nhân lực của ManpowerGroup, Việt Nam hiện có khoảng 11% lao động có trình độ kỹ năng tay nghề cao. Đây được xem là mức khá thấp trong khu vực nếu so với các nước như Malaysia (29%), Philippines (18%) hay Thái Lan (14%). Dù Việt Nam sở hữu lực lượng lao động trẻ (lao động thế hệ Y, Z, Alpha chiếm 65%), trình độ chuyên môn và kỹ năng số của nhiều người lao động vẫn còn hạn chế, đặc biệt là tại các khu vực nông thôn và vùng sâu vùng xa. Sự chênh lệch về mức độ phát triển kinh tế và giáo dục giữa các vùng miền đã tạo ra khoảng cách đáng kể về chất lượng lao động và khả năng tiếp cận công nghệ... Theo Báo cáo giám sát số 1385/BC-ĐGS ngày 06/8/2025 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, đến năm 2024, Việt Nam có khoảng 38 triệu lao động chưa qua đào tạo từ sơ cấp trở lên; tỷ lệ lao động đã qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ ở Việt Nam mới chỉ đạt khoảng 28,3%, thấp hơn nhiều so với mặt bằng chung của các quốc gia trong khu vực ASEAN. Điều này đặt ra yêu cầu cấp bách trong việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Bà Vi Thị Hồng Minh - Phó Giám đốc Văn phòng Giới sử dụng lao động (VCCI) đã chỉ ra rằng: Nhu cầu nhân lực công nghệ thông tin, công nghiệp số của Việt Nam khoảng 150.000 kỹ sư/năm, nhưng hiện mới đáp ứng được 40-50%. Riêng nhu cầu nhân lực ngành Công nghiệp bán dẫn là 5.000-10.000 kỹ sư/năm, song khả năng đáp ứng chưa đến 20%. Đến năm 2030, cả nước cần tới 2,5 triệu nhân lực phục vụ chuyển đổi số. Dự báo đến 2030, cần 2,5 triệu nhân sự phục vụ chuyển đổi số, chưa kể nhu cầu nhân lực cho các ngành năng lượng tái tạo, kinh tế tuần hoàn và sản xuất xanh.
|
|
Bà Nguyễn Thanh Hương - Giám đốc Nhân sự Toàn quốc, Công ty Manpower Việt Nam cho biết, để phát triển nhân lực phù hợp với bối cảnh kinh tế số và tăng trưởng xanh, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các chủ thể: nhà nước – doanh nghiệp – tổ chức Công đoàn – cơ sở đào tạo. Trong đó, doanh nghiệp đóng vai trò chủ động đầu tư và sử dụng lao động; công đoàn đồng hành bảo vệ, nâng cao năng lực cho người lao động; nhà nước tạo khung pháp lý, cơ chế khuyến khích và định hướng phát triển nhân lực quốc gia.
Ông Nguyễn Khánh Long - Phó Cục trưởng Cục Việc làm (Bộ Nội vụ), nhận định: Chuyển đổi số chỉ thành công khi có sự chuyển đổi đồng bộ về kỹ năng của lực lượng lao động. Tại Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/06/2020 về Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 đã xác định phát triển nhân lực số là một trong ba trụ cột quan trọng trong Chiến lược chuyển đổi số quốc gia đến năm 2030. Tuy nhiên, chỉ khoảng 35% người lao động Việt Nam tự đánh giá đủ kỹ năng số để đáp ứng công việc trong tương lai (Microsoft và LinkedIn, 2024). Theo ông Long, đây là khoảng trống lớn cần được lấp đầy thông qua hệ thống giáo dục, đào tạo nghề và chính sách phát triển kỹ năng suốt đời. |
|
|
Tại Việt Nam, dù mới ở giai đoạn đầu trong chuyển đổi xanh, kinh tế xanh, nhưng các chuyên gia nhận định xu hướng việc làm xanh đang được nhiều doanh nghiệp chú ý trong công tác tuyển dụng. Nhằm bảo đảm cả số lượng và chất lượng nguồn nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên chuyển đổi số và tăng trưởng xanh, ông Nguyễn Khánh Long cho rằng cần triển khai đồng bộ một số giải pháp chiến lược như: Ban hành Chiến lược Quốc gia về phát triển nhân lực gắn với chuyển đổi số và tăng trưởng xanh; lồng ghép mục tiêu và giải pháp phát triển nhân lực vào quy hoạch tổng thể quốc gia, chiến lược tăng trưởng xanh, và kế hoạch chính sách việc làm, xác định rõ nhóm ngành ưu tiên đến năm 2030; phân loại nhu cầu kỹ năng theo từng nhóm ngành, bao gồm cả kỹ năng chuyên môn và kỹ năng. Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh đào tạo lại và nâng cấp kỹ năng cho lực lượng lao động, trong đó xác định trọng tâm vào kỹ năng số. Đối người lao động, đặc biệt là nhóm lao động yếu thế, cần có chính sách hỗ trợ tài chính và chính sách khác để người lao động có thể tham gia đào tạo lại mà không bị gián đoạn thu nhập. Xây dựng và vận hành cơ sở dữ liệu quốc gia về nhân lực số và nhân lực xanh, ứng dụng công nghệ Big Data, AI, và các công cụ phân tích dự báo để bảo đảm tính chính xác và cập nhật với mục tiêu thu thập, cập nhật, và phân tích dữ liệu về số lượng, chất lượng, phân bố, kỹ năng của lực lượng lao động; dự báo biến động nghề nghiệp, xu hướng việc làm mới, và nguy cơ mất việc do tác động của công nghệ hoặc yêu cầu môi trường. Kết quả của việc vận hành hiệu quả cơ sở dữ liệu sẽ giúp Chính phủ hoạch định chính sách phát triển nhân lực sát thực tế và kịp thời; cung cấp thông tin cho doanh nghiệp trong tuyển dụng và hoạch định nhân sự dài hạn; hỗ trợ cá nhân trong định hướng nghề nghiệp và lựa chọn đào tạo phù hợp. Những con số và ý kiến tại hội thảo đã cho thấy một bức tranh vừa nhiều cơ hội vừa nhiều thách thức. Việt Nam đang sở hữu lực lượng lao động trẻ, năng động, nhưng khoảng cách về kỹ năng, nhất là kỹ năng số và kỹ năng xanh, vẫn còn rất lớn. Việc xây dựng chiến lược phát triển nhân lực quốc gia gắn với kinh tế số và tăng trưởng xanh không chỉ là yêu cầu trước mắt, mà còn là nền tảng để đất nước nắm bắt thời cơ, tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu. Muốn làm được điều đó, cần sự cam kết và phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước, doanh nghiệp, tổ chức công đoàn, cơ sở đào tạo và chính người lao động, biến nhân lực thực sự trở thành “chìa khóa” cho tăng trưởng nhanh và bền vững.
|

Toàn cảnh hội thảo. Ảnh: Hải Nguyễn.
Bà Vi Thị Hồng Minh - Phó Giám đốc Văn phòng Giới sử dụng lao động (VCCI) phát biểu tại hội thảo. Ảnh: Hải Nguyễn.
Ông Nguyễn Khánh Long - Phó Cục trưởng Cục Việc làm (Bộ Nội vụ) phát biểu tại hội thảo. Ảnh: Hải Nguyễn.