![]() |
Tôi gặp kĩ sư Trần Quang Anh tại đảo Tốc Tan A. Quang Anh sinh năm 1994 tại Hải Phòng, tốt nghiệp Đại học Hàng Hải, chuyên ngành Công trình thủy. Anh về làm việc tại một công ty tư vấn xây dựng công trình hàng hải. Anh ra làm việc tại Trường Sa từ cuối năm 2022. Nhiệm vụ chính là giám sát hiện trường để công trình xây dựng đạt tiêu chí, tiêu chuẩn kĩ thuật cũng như an toàn, tiến độ... Quang Anh kể, anh là con một, bố anh tuổi cao và đã mất khi anh mới 5 tuổi. Nhà chỉ có hai mẹ con, may mắn là trước khi ra đảo anh đã kịp xây dựng gia đình, dù có xa cách nhưng ở nhà vẫn có mẹ con bà cháu với nhau. Anh vẫn nhớ mãi lần đầu ra đảo, chưa biết mọi thứ sẽ thế nào, nhìn vợ con buồn khóc sướt mướt lúc chia tay, anh cũng một chút động lòng. Sau 6 tháng, anh được nghỉ phép về thăm nhà. Những câu chuyện kể về Trường Sa có lẽ là món quà quý giá nhất có tác dụng trấn an mẹ và vợ. Thấy anh trở về rắn rỏi và biết được cuộc sống, công việc ở Trường Sa cả nhà mới trút được sự lo lắng. Lần trở lại Trường Sa sau đó của Quang Anh mang theo sự vui vẻ và yên tâm, vì gia đình đã vững vàng hơn nhiều.
|
| Kỉ niệm nhớ nhất của Quang Anh là hai cái tết tại Trường Sa. Khi đó các thành phần trên đảo đều tập trung đón năm mới, hòa trong những trò chơi vui vẻ, thi bóng bàn, bóng chuyền, thi gói bánh chưng. Hai cái tết tại Phan Vinh A dù xa nhà, nhưng anh cảm thấy có ý nghĩa khi được cùng các lực lượng bảo vệ đảo đón xuân trên biển. Anh tâm sự, thấy vinh dự và tự hào khi được công ty tin tưởng cử ra Trường Sa làm việc, anh cũng vui vì đóng góp được một phần công sức nhỏ bé cho sự nghiệp bảo vệ biển đảo của Tổ quốc. Những thiệt thòi cá nhân theo Quang Anh chỉ là nhỏ, có thể vượt qua, và trong hành trình ấy, mỗi người thợ ở Trường Sa rất cần một hậu phương vững chắc. |
|
| Những công nhân làm việc tại Tốc Tan A đa phần quê ở dải đất miền Trung, các tỉnh Nghệ An, Quảng Ngãi, Quảng Bình, Quảng Trị, là những người bơi lặn giỏi, có kinh nghiệm làm việc với sóng gió. Dù đảm nhiệm vai trò gì thì họ cũng luôn sẵn sàng. Trần Đình Hoán là công nhân của Công ty Thành An - Binh đoàn 11, đang ngồi nhặt ôm rau mồng tơi để chuẩn bị bữa trưa cho anh em trong đội xây dựng. Trong điều kiện biển đảo, anh em trong đội tự phân công nhau nấu nướng chứ cũng chẳng có người phục vụ. Thời tiết thất thường ở đảo khiến cho các nghệ sĩ của Đoàn Văn công Quân khu 2 phải dời sân khấu cơ động đến 3 lần, tiếng hát tiếng nhạc sôi động vọng khắp đảo như một lời thúc giục khiến Hoán có phần chộn rộn theo. Tôi hỏi Hoán: - Sao không ra xem văn công một lúc rồi về làm? Hoán cười bẽn lẽn: - Cũng muốn lắm nhưng như vậy thì sẽ không kịp cơm để anh em ăn trưa. |
Phía sau lưng chỗ Hoán ngồi nhặt rau là téc nhựa đựng nước ngọt. Tôi để ý trên mặt téc có ghi dòng chữ “Nước ngọt. Không tắm. Không giặt. Nếu phi phạm 1 lít 500K”. Là bởi nước được cấp theo tiêu chuẩn trong ngày cho mỗi người 10 lít sử dụng cá nhân, còn nước ở téc dùng cho những nhu cầu chung khác, không ai được lấy thêm sử dụng riêng. Câu cảnh báo như một lời nhắc nhở nghiêm khắc. Theo chân các công nhân vào khu nhà ở tìm hiểu thêm về cuộc sống của họ, Nguyễn Văn Pháp quê Xuân Trường (Nam Định) nổi tiếng là một người vui tính và nhanh nhẹn. Trong câu chuyện với tôi, nếu các công nhân đa phần e dè, ngại chia sẻ thì Pháp luôn là người nói thay, nói đỡ. Đến lượt mình, Pháp cho biết anh đã ra đảo được 17 tháng với công việc lái máy công trình. Cũng như nhiều người khác ở đảo, Pháp đã ăn hai cái tết, một ở Núi Le, một ở Tốc Tan. Công việc của anh liên quan đến kĩ thuật, ngồi điều khiển trên cabin, thay vì làm việc trực tiếp. Pháp luôn nói về những vất vả của anh em khác khi phải dầm mưa dãi nắng, dầm nước biển mặn mòi.
Như anh Nguyễn Hữu Trung sinh năm 1981, quê Vĩnh Linh, là một thợ lặn giỏi. Trung cho biết, công việc xây dựng theo con nước thủy triều lên xuống, nhiều hôm buổi làm việc kéo dài đến 4 giờ sáng. Trên vách lán ở là bộ ống thở, kính lặn của Trung treo như một hành trang không thể thiếu. Gia đình Trung cũng thuộc diện khó khăn, anh là bố của 4 con, đứa đầu đã vào đại học còn đứa út mới 5 tuổi nhưng không may bị bại não sau lần đi tiêm vắc xin viêm màng não Nhật Bản tại quê. Bởi thế vợ anh ở nhà gần như phải trông con không đi làm được, mọi thu nhập trông chờ vào đồng lương của Trung gửi về. Dù hậu phương còn những bất an nhưng anh vẫn cố gắng để hoàn thành tốt công việc. Trường Sa đã vững vàng hơn từng ngày nhờ những đóng góp nhỏ bé của mỗi cá nhân đơn lẻ, trong đó không thể kể đến công sức của những người thợ xây dựng.
Ở đảo Phan Vinh, còn có những người bén duyên với màu áo lính bằng cách đầy ý nghĩa, như chiến sĩ Trần Trung Hiệp. Quê anh ở Quảng Ngãi, vùng đất có nhiều ngư dân sống bằng nghề đánh bắt xa bờ. Lớn lên Hiệp cũng theo nghiệp ấy. Một lần ra khơi anh đã ghé lại đảo Trường Sa tránh trú bão, ghe của Hiệp đã được các chiến sĩ ở đảo hỗ trợ dầu máy và các nhu yếu phẩm. Thế rồi khi nhập ngũ năm 2024 anh lại tình cờ vào bộ đội hải quân, đặc biệt hơn nữa là sau khi huấn luyện anh đã được ra Trường Sa nhận nhiệm vụ tại đảo Phan Vinh. Từ chỗ là ngư dân, được hưởng sự hỗ trợ của quân và dân nơi tiền đồn Tổ quốc, Hiệp đã lại trở thành một chiến sĩ cầm súng làm nhiệm vụ thiêng liêng bảo vệ biển đảo của Tổ quốc mình. Sự hiện diện của những người “thợ lính” ở Trường Sa sẽ góp phần giúp cho ngư dân của chúng ta, những người như Trần Trung Hiệp trước đây và rất nhiều những bà con bám biển có được sự hỗ trợ tốt hơn trong hành trình vươn khơi.
|
Bên cạnh lực lượng “thợ lính”, là những người “lính thợ”. Trung tá Đặng Ngọc Trung, Chính trị viên Cụm 2, người con của vùng đất Thanh Miện (Hải Dương), mang trong mình một hành trình dài với những năm tháng gắn bó với các công trình biển đảo, bởi anh vốn dĩ là sĩ quan công binh. Từ âu tàu Song Tử Tây đến nhà chỉ huy đảo Trường Sa Đông và cả công trình chùa trên đảo Sơn Ca này, Trung đều có mặt cùng anh em xây dựng. Hỏi về sự khó khăn của lính thợ xây Trường Sa, Trung chia sẻ, đặc thù của lính thợ đi xây dựng các công trình là không có doanh trại chính quy như bộ đội mà thường ở tạm lán trại tự dựng, vì thế việc ăn ở sinh hoạt cũng vất vả, thiếu thốn hơn. Nhất là trong điều kiện biển đảo, việc đảm bảo khó khăn, các anh cũng phải tổ chức trữ nước ngọt, trồng rau, tăng gia, đi đến đâu triển khai ở đấy, để phục vụ đời sống sinh hoạt cho những người lính thợ.
|
Bên mỗi khu nhà ở của những người “lính thợ” hay “thợ lính” mà tôi bắt gặp trên các đảo đều là những vườn rau tận dụng, bất cứ một góc nhỏ nào cũng được quây kín gió để bắc dây mồng tơi, gốc mướp đắng, luống rau cải, rau muống, giàn bí giàn bầu để tăng nguồn rau xanh. Như năm ngoái, từ tết đến giữa tháng 5 không một hạt mưa, anh em phải chia nhau từng ca nước ngọt, lãnh đạo chỉ huy các đảo cũng chỉ biết động viên họ sử dụng tiết kiệm, cùng nhau chia sẻ khó khăn. Ở nơi biển đảo xa xôi, dù là bộ đội trực sẵn sàng chiến đấu hay lực lượng làm nhiệm vụ, tham gia xây dựng đảo đều chung một vùng trời vùng biển, chung những khó khăn thử thách. . Cuộc đời lính đảo còn là những lần chuyển công tác, hết đảo này đến đảo khác. Đại úy Đỗ Đức Giáp – Trợ lý công binh của đảo Trường Sa Đông, vẫn thường đùa vui rằng, hành trình đó có thể “ghi hết cả trang giấy”.
|
| Giáp có một niềm tự hào nho nhỏ khi anh cũng chính là một trong những người vác đá xây đảo An Bang, vùng đảo nổi tiếng sóng to gió lớn ở Trường Sa. Một người anh khi đi công tác ở Quân chủng cho Giáp biết tấm ảnh chụp anh đang “vác đá xây Trường Sa” được trưng bày ở Bảo tàng Quân chủng. Giáp thấy vui và tự hào vì điều đó. Ở Trường Sa có những người “thợ lính” rong ruổi trên những hành trình, họ là lực lượng làm nhiệm vụ trên các con tàu. Nguyễn Thế Anh là một người như thế. Trên con tàu KN 290, một chàng trai nhỏ nhắn, da ngăm đen, đeo kính chạy đi chạy lại giữa các bữa ăn. Hỏi chuyện, được biết Nguyễn Thế Anh vốn là Phó thuyền trưởng Tàu KN 220, thuộc Chi đội kiểm ngư số 2, Vùng 2 Hải quân, nhưng được tăng cường sang Tàu KN 290 để thực hiện nhiệm vụ trong chuyến ra khơi của chúng tôi lần này.
Không giống như nhiều “thợ lính” xuất xứ từ các vùng quê ven biển, Nguyễn Thế Anh (sinh năm 1993) quê gốc ở Tân Yên, Bắc Giang, 7 tuổi theo bố mẹ vào lập nghiệp tại vùng ngã ba biên giới Ngọc Hồi, Kon Tum. Trên Tàu KN 290, lúc thì thấy anh thoăn thoát hạ xuồng, đưa người vào đảo, lúc lại thấy anh cùng anh em trực trên buồng lái. Trước khi thực hiện nhiệm vụ trên Tàu KN 290 ở chuyến đi này, anh vừa kết thúc đợt trực 67 ngày trên Tàu KN 220 phối hợp cùng lực lượng cảnh sát biển đi tuần tra ở vùng biển giáp ranh với Malaysia chống khai thác hải sản trái phép. Hàng tháng trời trên biển, mỗi khi kết thúc đợt công tác, tàu về cảng là anh em cứ lên mặt đất đi mải miết, đi cho đã cái chân, cho đỡ nhớ đất, nhớ cây cỏ, nhớ người. Cảm giác “khát” đất liền, “khát” rau xanh, “khát” một cơn mưa giữa biển khơi trong những chuyến làm nhiệm vụ dài ngày là rất thật, như sờ nắn được. |
Trên Tàu KN 290, còn có chàng học viên trẻ ngành máy K65, Học viện Hải quân - Nguyễn Đình Phú Quốc. Cái tên của Quốc gắn liền với nơi anh sinh ra. Quốc sinh năm 2002, vốn là con nhà lính. Mẹ anh làm việc tại Vùng 5 Hải quân đóng tại huyện đảo Phú Quốc. Bố Quốc trước khi ra ngoài làm cũng từng là lính Tăng thiết giáp tại huyện đảo này. Bố mẹ lấy nhau, Quốc sinh ra tại đây, trong khi mọi người trong gia đình còn băn khoăn giữa hai tên gọi Phú hoặc Quốc để đặt cho giản dị thì ông nội anh đã quyết đặt cho cháu cái tên Nguyễn Đình Phú Quốc. Nơi làm việc tương lai của những thợ máy như Quốc là ở dưới khoang tàu, nơi được coi là ngột ngạt nhất, nóng nực nhất, ồn ào tiếng máy nhất trong cơ thể lớn của con tàu, như khoang máy của con tàu KN 290 mà Quốc đang thực tập đưa chúng tôi ra Trường Sa. Nhưng đó cũng là nơi duy trì cho con tàu có thể di chuyển trên mỗi hải trình. Sau chuyến thực tập này Quốc sẽ trở về trường để tiếp tục hoàn thiện chương trình, tham gia diễn tập cuối khóa trước khi tốt nghiệp. - Được về gần nhà thì cũng tốt nhưng một khi đã bước chân vào quân ngũ thì em nghĩ dù được phân công đi đâu em cũng sẽ vui vẻ hoàn thành tốt nhiệm vụ. Quốc trả lời khi tôi hỏi nguyện vọng sau ra trường có muốn về Vùng 5 Hải quân công tác cho gần nhà không.
|
| Điều kiện làm việc trên tàu giới hạn bởi không gian, tôi đi một hành trình vài ngày đã thấy bí bách, khó chịu, bó chân bó cẳng. Còn những người lính thợ trong những đợt làm nhiệm vụ, “ngôi nhà di động” này vừa là không gian sinh tồn, vừa là nơi thực hiện nhiệm vụ. Nhiều anh em lái tàu, thợ máy sức khỏe không tốt, trong điều kiện sóng to gió lớn không tránh khỏi say sóng. Cụm từ “xách xô đi trực” không phải ai cũng hiểu. Là xách xô theo để nôn khi bị sóng dập say lử đử để khỏi nôn xuống sàn bẩn sàn tàu. Dù quen với sóng gió hay sức khỏe tốt thì họ cũng là những con người bằng xương thịt, đều có những giới hạn chịu đựng nhất định.
|
Tôi đến đảo Đá Lát đúng lúc một cơn mưa lớn bất chợt đổ xuống xối xả, nặng hạt như cũng phải chống chọi với gió, từng hạt nước trong dáng bay xiên chỉ rơi thôi cũng chật vật. Biển trời mù mịt trong màn trắng đục suốt cả tiếng đồng hồ. Trong sự ẩm sực mùi nước và những vệt mưa còn đọng lại bên ban công, anh Đỗ Trường Xuân, nhân viên Trạm Hải đăng, với chất giọng Hải Phòng đặc trưng, kể về công việc của mình. Tuy bén duyên với nghề gác đèn biển muộn, nhưng từ năm 2000 đến nay ở Trường Sa có 9 trạm hải đăng thì anh Xuân cũng đã đi hết 7 trạm, từ Song Tử Tây, Trường Sa lớn, Đá Tây, Sinh Tồn, Nam Yết, Tiên Nữ và Đá Lát… Hành trình ấy được đánh dấu bằng những chuyến vào đất liền - ra đảo, cứ vào bờ nghỉ phép xong lại ra, ra rồi lại vào. Cả năm bám biển, trừ thời gian về công ty, về quê thăm vợ con đôi tháng. Vợ con anh Xuân vẫn ở quê, Hải An, Hải Phòng. Chia tay lĩnh vực vận tải biển sang làm người gác đèn cũng là thời điểm đánh dấu cho cuộc hôn nhân của anh. Năm 2000 về công ty bảo đảm an toàn hàng hải và đi đảo thì năm 2001 anh lập gia đình, nên cũng có thể nói là tuổi đi biển cùng với tuổi của hôn nhân chồng vợ. Hai mươi bốn năm xa cách, anh chị có hai cậu con trai, cũng vì điều kiện mà giãn cách giữa hai lần sinh nở của vợ anh khá dài - 9 năm. |
|
| Hải đăng Đá Lát là trạm khó khăn vất vả nhất, nguy hiểm nhất vì chỉ được xây dựng lắp ghép như nhà giàn chứ không kiên cố như các trạm hải đăng thông thường. Hóa ra do điều kiện địa chất, không như hải đăng tại các đảo khác ở Trường Sa, hải đăng Đá Lát từ trước đến nay vốn dĩ chỉ đơn giản như vậy. Anh Xuân bảo, nhìn xa thì thế nhưng ngọn hải đăng ấy cũng cao đến 42 mét. Trong khung thép ấy, chỗ trực của 5 anh em tổ đèn chon von như lính nhà giàn hết năm này qua tháng khác. Những mùa mưa bão, cốc nước đặt trên bàn rung bần bật như chực đổ, sao nó cũng giống khung nhà thép của các anh giữa biển đến thế.
Ở Trường Sa, ngoài hải đăng Đá Lát, Tiên Nữ cũng là trạm vất vả. Do đặc thù dẫn đường, các trạm hải đăng thường nằm ở những vùng xa xôi hẻo lánh đầu luồng đầu lạch, nếu ở đất liền thì cũng nằm ở những mũi nhô ra biển. Ở Tiên Nữ, từ trạm hải đăng sang nơi bộ đội đóng quân là khoảng cách 5 cây số. Ở Đá Lát thì gần đảo hơn, chỉ vài trăm mét nhưng gần đấy mà cũng xa vì mỗi bộ phận mỗi việc, chỉ khi có việc chung mới gặp nhau. Tết đến anh em đi xuồng sang đón năm mới với đơn vị chốc lát rồi lại trở về “tổ chim nhỏ”. Quanh năm suốt tháng ở biển, mỗi lần về đất liền với anh Đỗ Trường Xuân là một lần lạ lẫm, là một lần làm quen lại với mọi thứ. Mỗi lần về lại thấy con lớn lên, khác trước. Lần đầu anh ra đảo con trai đầu mới đẻ, rồi cao dần đến gối, đến hông, đến ngực bố… Và cũng như nhiều người đàn ông khác, nhìn bố mẹ, vợ con vất vả, tủi thân, lo toan mọi việc mỗi dịp lễ Tết, anh Xuân không khỏi chạnh lòng. Nhìn những thiệt thòi ấy của hậu phương, anh vẫn chấp nhận để vượt qua. - "Đã là bộ đội hay làm việc ở biển đảo là anh em ai cũng xác định tư tưởng tốt, luôn trong tâm thế khắc phục khó khăn, nếu không thì sẽ không thể vững vàng để làm nhiệm vụ", anh Xuân bảo tôi.
Cơn mưa đã kết thúc. Khi mưa dứt đất trời như được thanh lọc, trong trẻo và tươi mát. Anh em ở đảo cho biết, mỗi lần trời mưa như một dịp để mọi thứ tái sinh, không chỉ cây cối trên đảo mà chính họ cũng như được tưới tắm, phục hồi lại. Công việc của những người dù không mang màu áo lính, nhưng đã có mặt nơi tiền đồn Tổ quốc không chỉ ngày một, ngày hai mà là cả hành trình dài theo năm tháng. Đời người hữu hạn giữa biển cả muôn trùng dài theo năm tháng, đo đếm bằng những cái tết xa nhà. Bởi tết thì tàu bè vẫn chạy, vẫn cần những ngọn đèn định hướng, soi đường chỉ lối. Rồi những cái tết cứ nối nhau, cho đến giờ anh Xuân cũng chẳng nhớ mình đã ăn bao nhiêu cái tết giữa trùng khơi, anh chỉ nhớ riêng ở Đá Lát anh đã ăn bốn cái tết ở đây. Lúc nào cũng thế, trạm hải đăng luôn luôn là 5 người, người này về thì người kia ra, thay nhau trực chiến giữ lửa cho đèn biển đêm đêm quay tròn quét những dải ánh sáng như gieo niềm tin trên mặt biển.
Bây giờ hải đăng Đá Lát mới được xây dựng lại, khang trang bề thế, chờ bàn giao và nghiệm thu xong tổ đèn của anh Xuân sẽ dọn sang “nhà mới”. Không còn cảnh “tổ chim” chon von trên biển giữa phong ba bão tố nữa thì cũng là lúc anh Xuân chuẩn bị nghỉ hưu. Điều kiện làm việc của anh em trực hải đăng tại Đá Lát tới đây sẽ được cải thiện khi chuyển sang trạm mới được xây dựng kiên cố và chắc chắn, mọi vất vả, nguy hiểm sẽ được khắc phục ít nhiều, nhưng khoảng cách vời vợi giữa đảo và đất liền, giữa muôn trùng sóng và tổ ấm bình yên ở quê nhà thì vẫn là thứ bất biến. Nhưng không vì thế mà thiếu đi những “thợ lính” sẵn sàng hiện diện ở nơi này.
Tôi để từ “thợ lính” trong ngoặc kép vì thực chất họ không phải là những người lính, cũng không thuộc sự quản lí của các đơn vị quân đội nhưng những cống hiến của họ, sự thiệt thòi của họ cũng chẳng khác biệt những người lính đảo là bao. Trên con tàu nhỏ chuyển tiếp ra Tàu KN 290 để rời vùng biển Đá Lát, trong một khoảnh khắc, hình ảnh hai ngọn hải đăng dưới ánh mặt trời sau mưa trên vùng biển dịu êm như một sự đối sánh về một hành trình của hệ thống đảm bảo hàng hải trên biển của Việt Nam. Nó cũng giống như một ẩn dụ về cơ đồ đất nước trong những kiếm tìm, vượt thoát để vững bước tới tương lai. Trong hành trình ấy có những đóng góp âm thầm của những người “lính thợ” và cả những người “thợ lính”.
|
| Bài viết: NGUYỄN XUÂN THỦY - PHẠM TRƯỜNG GIANG Ảnh, Video: NGUYỄN XUÂN THỦY Thiết kế: AN NHIÊN |