Truyền thông chính sách dân tộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở tỉnh Hà Giang
Kinh tế - Xã hội

Truyền thông chính sách dân tộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở tỉnh Hà Giang

Trương Hà Tùng Nhi - Lê Thị Hảo (Học viện Hành chính và Quản trị công)
Truyền thông chính sách dân tộc là cách thức các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thực hiện các hoạt động đưa chính sách của Nhà nước đến với Nhân dân và xã hội nhằm thu thập thông tin, phản hồi và tạo sự đồng thuận, nhất trí cao của dư luận trước khi ban hành hoặc tổ chức thực thi chính sách. Bài viết tập trung phân tích thực trạng thực hiện truyền thông chính sách dân tộc tại tỉnh Hà Giang, qua đó, đề xuất một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hiệu quả thực hiện công tác truyền thông chính sách dân tộc tại tỉnh Hà Giang trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Từ khóa: Truyền thông, thực hiện truyền thông chính sách; chính sách dân tộc; thực trạng; giải pháp; đẩy mạnh hiệu quả.

Cơ sở lý luận về truyền thông chính sách dân tộc

Truyền thông chính sách dân tộc

Truyền thông chính sách theo một số quốc gia, tổ chức là công việc quan trọng trong việc thực hiện Chính sách của Chính phủ. Chính phủ coi chính sách như một “sản phẩm” và cần hướng tới khách hàng, là những người dân thông qua việc sử dụng các công cụ truyền thông, tiếp thị để làm cho chính sách của họ phù hợp với yêu cầu của công dân.

Truyền thông chính sách thường được liên kết với các chính trị gia, những người hoạch định chính sách và quy trình chính trị. Truyền thông chính sách cũng là phương tiện để thúc đẩy các chương trình nghị sự của Đảng và Chính phủ, bao gồm việc tạo ảnh hưởng tới dư luận, giải thích các vấn đề, đề xuất các giải pháp ưu tiên và huy động quần chúng thiết kế chính sách, vận động hành lang, thực hiện chính sách, giám sát, phản hồi và hoạt động liên quan đến bầu cử.

Truyền thông chính sách dân tộc có thể coi là quá trình trong đó có sự tham gia của chủ thể truyền thông nhằm trao đổi, truyền đạt thông tin, tuyên truyền về những chính sách dân tộc thông qua các phương tiện truyền thông nhằm thu hút người dân, đối tượng truyền thông nhận biết và hiểu về chính sách, góp phần tạo sự đồng thuận xã hội và phát triển đất nước.

Truyền thông chính sách dân tộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở tỉnh Hà Giang
Truyền thông chính sách dân tộc luôn được quan tâm đặc biệt.

Công tác truyền thông chính sách dân tộc tại Hà Giang

Hà Giang là tỉnh vùng cao biên giới cực bắc của Tổ quốc với 19 dân tộc anh em sinh sống, trong đó dân tộc thiểu số chiếm hơn 87%. Những năm qua, vấn đề truyền thông chính sách trên địa bàn đã được Đảng, Nhà nước và lãnh đạo tỉnh đặc biệt quan tâm. Điều này tác động mạnh mẽ tới nhận thức, thái độ và hành động của người dân trong đời sống; hình thành các giá trị xã hội, định hướng được dư luận và xác lập xu hướng hành xử của mỗi người.

Tuy nhiên, hoạt động này chưa phát huy hết hiệu quả vốn có. Thông tin, cách tiếp cận chưa phù hợp với nhu cầu, đặc điểm của người dân. Nội dung thông điệp vẫn thể hiện thói quen, chưa sáng tạo. Nhiều chính sách, văn bản pháp luật đã có hiệu lực nhưng người dân chưa có hiểu biết đầy đủ về các nội dung liên quan.

Hơn nữa, Hà Giang đang trong quá trình thực hiện nhiều nhiệm vụ chính trị trọng tâm: xây dựng nông thôn mới, phát triển du lịch gắn với bảo tồn văn hóa, chuyển đổi số trong quản lý Nhà nước và dịch vụ công, tinh giản biên chế, sắp xếp tổ chức bộ máy.

Trong bối cảnh đó, truyền thông chính sách không chỉ là công cụ hỗ trợ mà còn là điều kiện tiên quyết để tạo sự đồng thuận, dẫn dắt dư luận, củng cố niềm tin của Nhân dân với Đảng và chính quyền các cấp. Vì vậy, việc nghiên cứu, đánh giá khoa học, toàn diện và thực tiễn về thực trạng thực hiện truyền thông chính sách dân tộc tại Hà Giang là đòi hỏi khách quan, mang tính cấp thiết, vừa phục vụ mục tiêu nâng cao chất lượng truyền thông chính sách, vừa đáp ứng yêu cầu của Đảng về đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền và nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước trong giai đoạn hiện nay.

Một số kết quả và hạn chế

Kết quả

Truyền thông chính sách đóng vai trò then chốt trong việc thúc đẩy sự thay đổi mạnh mẽ về nhận thức và hành vi của người dân, góp phần nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật, tìm hiểu các quy định, cũng như tự giác thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước. Quyết định số 407/QĐ-TTg ngày 30 tháng 3 năm 2022 của Thủ tướng Chính phủ, phê duyệt Đề án “Tổ chức truyền thông chính sách có tác động lớn đến xã hội trong quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật giai đoạn 2022 - 2027”, đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc đổi mới công tác truyền thông chính sách. Đề án này nhấn mạnh việc đưa truyền thông chính sách vào ngay từ các giai đoạn đầu của quá trình xây dựng pháp luật, với mục tiêu chính là đánh giá đầy đủ tác động của truyền thông và ảnh hưởng xã hội của việc hoạch định các chính sách, pháp luật.

Trong những năm qua, công tác truyền thông chính sách dân tộc tại tỉnh Hà Giang đã đạt được một số kết quả tích cực, góp phần quan trọng trong việc nâng cao nhận thức và hiểu biết của đồng bào dân tộc thiểu số về các chính sách của Đảng và Nhà nước. Một trong những ưu điểm nổi bật là sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp chính quyền và các tổ chức chính trị - xã hội trong việc triển khai các chương trình truyền thông chính sách.

Các cơ quan chức năng như Sở Thông tin và Truyền thông, Ủy ban Dân tộc tỉnh Hà Giang đã chủ động tổ chức nhiều hoạt động tuyên truyền, góp phần đưa các chính sách dân tộc đến gần hơn với người dân. Các hình thức truyền thông đa dạng như hội nghị, hội thảo, tuyên truyền lưu động, đặc biệt là các chương trình qua đài phát thanh xã, đã giúp người dân ở vùng sâu, vùng xa tiếp cận thông tin chính sách một cách thuận lợi.

Thực tế, một khảo sát gần đây cho thấy 70% hộ gia đình tại các huyện vùng cao có tiếp cận thông tin qua các kênh truyền thanh, một tỷ lệ cao so với các khu vực khác, cho thấy hiệu quả rõ rệt của việc ứng dụng truyền thông; Các hoạt động truyền thông cũng đã kết hợp tốt với việc giải thích trực tiếp các chính sách thông qua các cuộc đối thoại giữa chính quyền và người dân. Điều này, một mặt giúp người dân hiểu rõ hơn về quyền lợi và nghĩa vụ của mình, mặt khác tạo sự đồng thuận, niềm tin trong cộng đồng. Tỷ lệ người dân tham gia vào các chương trình hỗ trợ chính sách, đặc biệt là các chính sách liên quan đến tín dụng, bảo hiểm xã hội, đất đai, đã tăng lên đáng kể, cho thấy sự thành công trong việc truyền tải thông tin chính sách.

Nguyên nhân của những thành công được lý giải từ nhiều yếu tố. Đầu tiên, sự quan tâm và chỉ đạo sâu sát của các cấp ủy Đảng, chính quyền đối với công tác truyền thông chính sách dân tộc đã tạo ra sự thống nhất và quyết tâm trong triển khai. Việc xác định truyền thông chính sách là một nhiệm vụ quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh đã thúc đẩy các cơ quan chức năng triển khai mạnh mẽ và hiệu quả các chương trình truyền thông. Thêm vào đó, các cơ quan chức năng tại tỉnh Hà Giang đã sáng tạo trong việc áp dụng các hình thức truyền thông phù hợp với đặc thù địa phương, như sử dụng các phương tiện truyền thanh xã và tổ chức các buổi tuyên truyền lưu động. Đây là những công cụ hữu hiệu trong việc tiếp cận đồng bào dân tộc thiểu số, giúp thông tin chính sách đến tay người dân một cách nhanh chóng và hiệu quả.

Sự tham gia của cộng đồng dân tộc thiểu số cũng đóng vai trò quan trọng. Người dân địa phương, đặc biệt là các trưởng thôn, già làng, luôn là những người chủ động trong việc lan tỏa thông tin chính sách tới các hộ gia đình. Các cuộc họp thôn, bản, các buổi giao lưu cộng đồng đã giúp thông tin chính sách được truyền đạt một cách gần gũi, dễ hiểu và dễ tiếp cận. Điều này không chỉ giúp người dân hiểu rõ hơn về chính sách mà còn tạo dựng niềm tin, sự đồng thuận trong cộng đồng. Từ đó, việc thực hiện các chính sách dân tộc tại địa phương trở nên thuận lợi hơn, đạt được hiệu quả cao hơn.

Hạn chế

Trong quá trình thực hiện hoạt động truyền thông chính sách dân tộc tại tỉnh Hà Giang, bên cạnh những kết quả tích cực, cũng tồn tại không ít hạn chế. Những vấn đề này cần được nhận diện rõ ràng để có các giải pháp khắc phục trong thời gian tới.

Một trong những hạn chế lớn nhất là việc xây dựng và triển khai các kế hoạch, chương trình truyền thông chủ yếu chỉ chú trọng phân công trách nhiệm thực hiện các nhiệm vụ theo các Đề án, chương trình của Trung ương mà thiếu đi sự cụ thể hóa và sáng tạo trong việc áp dụng vào tình hình thực tế của địa phương.

Chẳng hạn, Đề án thí điểm cơ chế đặc thù phát triển toàn diện vùng đặc biệt khó khăn (Đề án 1133) và các chính sách khác như Quyết định số 04/2017/QĐ-UBND quy định mức chi đối với đội tuyên truyền lưu động, mặc dù đã được triển khai, nhưng thường xuyên bị bó hẹp trong phạm vi các nhiệm vụ phân công, thiếu đi sự đổi mới trong cách thức triển khai và nội dung truyền thông. Điều này khiến cho việc thực hiện các chương trình không đạt được hiệu quả như mong muốn, không thể tạo ra sự bứt phá trong phát triển, đặc biệt trong công tác tuyên truyền các chính sách mới; Sự chồng chéo trong các cơ chế, chính sách cũng là một yếu tố cản trở hiệu quả của công tác truyền thông chính sách. Cụ thể, một số kế hoạch, chương trình được xây dựng có nội dung trùng lặp, không rõ ràng, như các Kế hoạch số 100/KH-UBND và 112/KH-UBND, dẫn đến việc triển khai không thống nhất. Điều này không chỉ tạo ra sự lúng túng trong công tác chỉ đạo, mà còn gây nhầm lẫn cho các đối tượng thụ hưởng chính sách.

Chính sự thiếu đồng bộ này làm giảm hiệu quả của công tác truyền thông chính sách, tạo ra những khó khăn trong việc triển khai và tiếp cận chính sách từ phía cộng đồng dân tộc thiểu số; Lồng ghép quá nhiều nguồn vốn trong một đề án, chương trình mà không xác định rõ nguồn kinh phí của từng cấp (tỉnh, huyện), từ đó dẫn đến tình trạng thụ động trong việc cân đối và bố trí ngân sách. Ảnh hưởng trực tiếp đến tính hiệu quả của việc triển khai các chính sách, đặc biệt là các chính sách về lao động, việc làm, hỗ trợ đào tạo nghề cho người dân.

Các đơn vị chịu trách nhiệm triển khai chưa có sự chủ động trong việc đề xuất cụ thể nguồn kinh phí cho từng nhiệm vụ, dẫn đến việc thiếu kinh phí khi triển khai, và các chương trình thường bị đình trệ hoặc không phát huy hết hiệu quả; Thủ tục hành chính trong việc thực hiện các chính sách còn quá phức tạp và không rõ ràng, dẫn đến khó khăn cho các doanh nghiệp và người dân khi tiếp cận cơ chế, chính sách. Ví dụ, các chính sách hỗ trợ tuyên truyền quảng cáo theo Nghị quyết 47/2012/NQ-HĐND hay hỗ trợ lãi suất vay vốn xuất khẩu lao động theo Nghị quyết 14/2010/NQ-HĐND chưa thực sự có tác động mạnh mẽ do không có hồ sơ nào đăng ký triển khai. Các thủ tục hành chính rườm rà, thiếu minh bạch và không linh hoạt đã khiến nhiều đối tượng thụ hưởng chính sách không thể tiếp cận được hỗ trợ, làm giảm tính hiệu quả và khả năng lan tỏa của các chính sách; Việc trông chờ quá mức vào kinh phí hỗ trợ từ Nhà nước là một thách thức lớn trong việc xây dựng sự tự lực, tự cường cho cộng đồng. Chế độ hỗ trợ lãi suất cho vay phát triển chăn nuôi trâu, bò sinh sản (Quyết định số 352/QĐ-UBND) và các chương trình khác vẫn chưa tạo được động lực mạnh mẽ để người dân chủ động tham gia, do thiếu các giải pháp đồng bộ để gắn kết doanh nghiệp, hợp tác xã với cộng đồng dân cư trong việc phát triển các mô hình kinh tế.

Truyền thông chính sách dân tộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở tỉnh Hà Giang
Đồng bào dân tộc thiểu số chiếm hơn 87% dân số tỉnh Hà Giang.

Một số kiến nghị và giải pháp đẩy mạnh thực hiện truyền thông chính sách dân tộc tại Hà Giang trong thời gian tới

Để đẩy mạnh công tác truyền thông chính sách dân tộc tại tỉnh Hà Giang, cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp cụ thể sau:

Thứ nhất, xây dựng kế hoạch, chiến dịch truyền thông chính sách trong kế hoạch hoạt động hằng năm. Các hoạt động truyền thông chính sách dân tộc phải có kế hoạch chiến lược và thông điệp trọng tâm. Cụ thể, các ban ngành quản lý chức năng khi có nhu cầu truyền thông chính sách thì phải lập kế hoạch truyền thông bao gồm việc soạn tài liệu tin tức, lập kế hoạch truyền thông về sau. Sau đó các ban ngành có yêu cầu hội ý truyền thông với phòng quan hệ công chúng hoặc thông tin đại chúng. Khi phòng quan hệ công chúng hay thông tin đại chúng xem xét kế hoạch truyền thông trên, có thể đưa ra ý kiến truyền thông bao gồm chiến lược và các ý kiến tư vấn độc lập bên ngoài. Sau khi đã tập hợp đầy đủ ý kiến của các đối tượng cần thiết, cần xác định mục tiêu, đối tượng quan trọng nhất mà truyền thông muốn hướng tới. Truyền thông chính sách phải tập trung vào người dân, mọi chính sách đều hướng đến người dân làm sao bảo đảm cho nhân dân sống trong độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc. Dựa trên kế hoạch truyền thông và các yêu cầu đặt ra của cơ quản lý, bộ phận truyền thông tự xây dựng kế hoạch tuyên truyền, truyền thông chính sách riêng, nhằm đảm bảo đúng với tôn chỉ, mục đích, đối tượng bạn đọc. Xây dựng chiến dịch truyền thông bài bản, khoa học, chuyên nghiệp có vai trò đặc biệt quan trọng đối với những chính sách có tác động lớn tới xã hội, tác động đến nhiều đối tượng với tinh thần dân biết, dân bàn, dân làm, dân hưởng thụ.

Thứ hai, đổi mới nội dung, hình thức truyền thông chính sách dân tộc. Về nội dung, công tác truyền thông chính sách dân tộc cần tập trung truyền tải những thông tin thiết thực, cụ thể, gắn liền với đời sống và lợi ích trực tiếp của người dân. Các nội dung truyền thông không nên dừng lại ở việc phổ biến các văn bản hành chính mang tính pháp lý khô khan, khó hiểu, mà cần được chuyển hóa thành các thông điệp rõ ràng, súc tích, dễ nhớ, dễ thực hành. Ngoài ra, các nội dung truyền thông cần được thiết kế phù hợp với đặc điểm văn hóa, ngôn ngữ và tập quán sinh hoạt của từng nhóm dân tộc. Việc lồng ghép các yếu tố văn hóa bản địa trong nội dung truyền thông giúp tạo sự gần gũi, dễ tiếp nhận, góp phần giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Ở những địa bàn có đông đồng bào dân tộc Mông, Dao, Tày, Nùng sinh sống, cần có sự hỗ trợ biên dịch tài liệu hoặc sử dụng song ngữ trong truyền thông để bảo đảm hiệu quả tiếp nhận thông tin. Về hình thức, việc đổi mới cần đi theo hướng đa dạng hóa và thích ứng với điều kiện thực tế từng khu vực. Bên cạnh việc duy trì các hình thức truyền thông truyền thống như loa truyền thanh, phát thanh - truyền hình, pa-nô, áp phích, cần đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và mạng xã hội trong truyền thông chính sách. Ở những nơi có kết nối internet và tỷ lệ người dân sử dụng điện thoại thông minh ngày càng tăng, có thể triển khai các video clip ngắn, dễ hiểu, có phụ đề song ngữ trên nền tảng Zalo, Facebook, YouTube… Hình thức này phù hợp với lớp trẻ và có khả năng lan tỏa thông tin nhanh. Tuy nhiên, đối với những vùng sâu, vùng xa chưa có điều kiện tiếp cận thông tin qua mạng, cần tăng cường tổ chức các hoạt động truyền thông trực tiếp tại cộng đồng thông qua các buổi sinh hoạt thôn bản, các hội nghị chuyên đề, hoặc sân khấu hóa chính sách qua các hình thức văn nghệ dân gian, kịch ngắn, hoạt cảnh, hát dân ca. Đây là những hình thức truyền thông vừa mang tính chất tương tác cao, vừa dễ tạo cảm xúc và ghi nhớ cho người dân

Thứ ba, triển khai các phương thức khảo sát, thăm dò nhu cầu, năng lực tiếp nhận thông tin truyền thông chính sách của người dân. Trước hết, cần thiết kế các công cụ khảo sát khoa học, phù hợp với điều kiện và đặc điểm dân cư địa phương. Việc khảo sát cần tập trung vào ba nhóm nội dung chính: (1) mức độ hiểu biết và nhận thức của người dân về chính sách dân tộc, (2) thói quen tiếp nhận thông tin (kênh tiếp cận, tần suất, mức độ tin cậy...), (3) những rào cản trong tiếp cận thông tin như ngôn ngữ, thời gian, khoảng cách, công nghệ, mức độ phù hợp về nội dung và hình thức. Các bảng hỏi cần được thiết kế theo hướng ngắn gọn, dễ hiểu, sử dụng song ngữ (tiếng Việt - tiếng dân tộc) và linh hoạt triển khai bằng hình thức trực tiếp, điện tử hoặc qua điện thoại. Giai đoạn 2025 - 2027, tỉnh Hà Giang nên tổ chức ít nhất 2 đợt khảo sát định kỳ hằng năm, mỗi đợt với quy mô tối thiểu 1.200 người dân tại các huyện trọng điểm như Mèo Vạc, Quản Bạ, Bắc Mê, Vị Xuyên, đảm bảo có đại diện cho nhiều nhóm tuổi, dân tộc, nghề nghiệp và trình độ học vấn. Có thể thực hiện khảo sát định tính kết hợp định lượng tại cộng đồng dân cư theo mô hình 3 cấp độ, 5 bước khảo sát như sau bao gồm: Cấp thôn/bản: khảo sát nhanh trực tiếp với người dân qua phỏng vấn hoặc phát phiếu giấy; Cấp xã/huyện: tổ chức thảo luận nhóm (Focus Group) với sự tham gia của đại diện người dân, trưởng thôn, già làng, thanh niên, phụ nữ, cán bộ địa phương; Cấp tỉnh: phân tích tổng hợp dữ liệu, tổ chức hội thảo phản hồi chính sách. Quy trình khảo sát: (1) Xác định nội dung khảo sát theo nhóm chính sách cụ thể (ví dụ: chính sách đất đai, hỗ trợ giáo dục, y tế dân tộc); (2) Thiết kế bộ câu hỏi kết hợp định lượng (trắc nghiệm) và định tính (câu hỏi mở); (3) Tổ chức khảo sát thực địa và trực tuyến (qua điện thoại, email, mạng xã hội); (4) Tổng hợp, phân tích dữ liệu bằng phần mềm thống kê (SPSS, Excel...); (5) Công bố kết quả, đưa vào báo cáo đánh giá tác động chính sách và kế hoạch truyền thông. Đặc biệt, cần có cơ chế cụ thể để truyền thông chính sách thực sự trở thành “diễn đàn của Nhân dân”, đúng với phương châm “dân biết - dân hiểu - dân tin - dân theo - dân làm - dân thụ hưởng”. Để làm được điều đó, các cơ quan chủ trì chính sách cần chuyển từ tư duy “truyền đạt” sang tư duy “đối thoại”; từ “tuyên truyền một chiều” sang “truyền thông tương tác”; từ “áp đặt nội dung” sang “chia sẻ, giải thích và khơi dậy trách nhiệm công dân”. Đây là yêu cầu về phương pháp, nhận thức, bản chất dân chủ của hoạt động hoạch định và thực thi chính sách công trong bối cảnh mới.

Thứ tư, tiếp tục bồi dưỡng, nâng cao chất lượng công chức, công vụ làm công tác truyền thông chính sách. Trong bối cảnh khoa học - công nghệ phát triển, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức làm nhiệm vụ truyền thông chính sách đang bộc lộ những hạn chế, yếu kém về năng lực, trình độ, khả năng tư duy mới, cách thức làm việc mới, kỹ năng quản lý, kỹ năng thực thi công vụ mới. Cùng với đó, việc sắp xếp, bố trí lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức các cơ quan, đơn vị phải sát nhập, hợp nhất, tổ chức lại hoặc bị giải thể sẽ dẫn đến một số cán bộ, công chức phải chuyển đổi công tác hoặc bị dôi dư, từ đó, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi và chế độ chính sách đối với một số cán bộ, công chức này. Do vậy, đòi hỏi phải triển khai các biện pháp đồng bộ để giải quyết ba mục tiêu trước mắt là: Giải quyết tốt chế độ, chính sách cho số cán bộ, công chức, viên chức bị dôi dư do quá trình đổi mới, sắp xếp, tinh gọn bộ máy, sát nhập, hợp nhất tổ chức, đơn vị; Đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cần tiếp tục đổi mới tư duy, tác phong, phương pháp làm việc, nắm vững chủ trương, đường lối của Đảng, am hiểu pháp luật và xu thế phát triển, hội nhập quốc tế, tinh thông nghiệp vụ, có đủ năng lực để bắt kịp quá trình phát triển theo hướng phục vụ người dân, doanh nghiệp và hội nhập quốc tế. Chuẩn bị đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý như công chức, viên chức kế cận có đủ đức, tài để đảm đương tốt nhiệm vụ truyền thông chính sách dân tộc. Xây dựng một đội ngũ cán bộ, công chức mạnh, thật sự đoàn kết, thống nhất cao xung quanh người đứng đầu để đủ sức gánh vác trọng trách vinh quang nhưng rất nặng nề là lãnh đạo hoàn thành sứ mạng lịch sử, nhiệm vụ chính trị, tổ chức toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ra sức phấn đấu, vượt mọi khó khăn, gian khổ, xây dựng đất nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh, ngày càng phát triển, Nhân dân ta ngày càng ấm no, hạnh phúc, xứng đáng với niềm tin yêu và sự mong đợi của toàn Đảng, toàn dân.

Thứ năm, đẩy mạnh nghiên cứu cách thức truyền thông chính sách phù hợp với tình hình mới. Trước hết, cần đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng thông tin đồ họa (infographic) như công cụ truyền thông hiệu quả trong truyền tải các chính sách có tính chất phức tạp hoặc mang tính hệ thống. Với ưu điểm trực quan, dễ hiểu, infographic giúp người dân tiếp cận nhanh chóng các nội dung chính sách thông qua hình ảnh minh họa, biểu đồ, sơ đồ quy trình hoặc bản đồ tư duy. Đây là phương pháp đặc biệt phù hợp để giải thích các chính sách có nhiều nội dung kỹ thuật như chính sách hỗ trợ đất ở, đất sản xuất, bảo hiểm y tế, tín dụng ưu đãi... Các cơ quan chức năng có thể tổ chức biên soạn tối thiểu 20 bộ infographic mẫu/năm, được trình bày song ngữ (tiếng Việt và tiếng dân tộc) và phổ biến qua hệ thống truyền thông cơ sở, bảng điện tử tại trụ sở xã, các trường học, điểm sinh hoạt cộng đồng. Cần đầu tư phát triển các sản phẩm truyền thông đa phương tiện (multimedia) như gói tin tức đa định dạng, bài viết chuyên sâu dạng dài (long-form journalism), hay dòng sự kiện tương tác (timeline). Những hình thức này không chỉ truyền tải thông tin theo chiều sâu mà còn kích thích người đọc chủ động tiếp nhận thông tin theo cách phù hợp với thói quen của mình. Ví dụ, một bài viết chính sách về hỗ trợ phát triển sản xuất có thể kèm theo video phỏng vấn nông dân hưởng lợi, đồ họa quy trình đăng ký vay vốn và đường link dẫn đến các thủ tục hành chính trực tuyến. Trong điều kiện thực tế tại Hà Giang, có thể thí điểm mô hình truyền thông đa phương tiện tại 3 huyện: Đồng Văn, Quản Bạ và Bắc Quang giai đoạn 2025 - 2027, với kinh phí khoảng 3 - 5 tỷ đồng, phục vụ sản xuất và phân phối các sản phẩm truyền thông chính sách phù hợp với từng nhóm đối tượng cụ thể như phụ nữ dân tộc, thanh niên vùng cao, người có uy tín trong cộng đồng. Việc nghiên cứu và tận dụng hiệu quả các nền tảng đa màn hình, đặc biệt là thiết bị di động, cần được ưu tiên trong truyền thông chính sách giai đoạn tới. Theo khảo sát của Sở Thông tin và Truyền thông Hà Giang năm 2023, có khoảng 70% hộ dân ở các xã vùng cao đã sở hữu ít nhất một thiết bị di động có kết nối internet. Thiết bị di động không chỉ là công cụ tiếp nhận thông tin, kênh phản hồi chính sách nhanh chóng, thuận tiện. Các cơ quan truyền thông của tỉnh cần nghiên cứu phát triển các ứng dụng hoặc nền tảng đơn giản, thân thiện, cho phép người dân đọc tin chính sách, xem video, gửi câu hỏi hoặc góp ý trực tiếp đến các cơ quan chức năng. Góp phần rút ngắn khoảng cách giữa người làm chính sách và người thụ hưởng, tăng tính minh bạch, phản biện và đồng thuận trong triển khai chính sách.

Thứ sáu, đảm bảo các điều kiện cho việc thực hiện hoạt động truyền thông chính sách. Trước hết, yếu tố con người tiếp tục giữ vai trò then chốt, quyết định trực tiếp đến hiệu quả của hoạt động truyền thông. Việc tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác truyền thông chính sách dân tộc cần được triển khai theo hướng chuyên sâu, phù hợp với đặc điểm từng vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Tỉnh Hà Giang cần xây dựng một đề án đào tạo tối thiểu 300 cán bộ truyền thông cơ sở giai đoạn 2025 - 2030, trong đó ít nhất 50% là người dân tộc thiểu số, có khả năng sử dụng thành thạo song ngữ (tiếng Việt và tiếng dân tộc), hiểu phong tục tập quán địa phương. Cùng với đó, cần tổ chức định kỳ các khóa bồi dưỡng kỹ năng truyền thông, tiếp cận cộng đồng, chuyển tải chính sách theo hình thức “kể chuyện - giải thích - hướng dẫn”, phù hợp với trình độ nhận thức của từng nhóm dân cư. Chính quyền các cấp cần ban hành chính sách đãi ngộ hợp lý với mức phụ cấp tối thiểu 1,5 triệu đồng/tháng đối với truyền thông viên thôn bản, được chi trả từ nguồn ngân sách tỉnh và lồng ghép trong Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Song hành với yếu tố nhân lực là vấn đề tài chính - nền tảng vật chất cho mọi hoạt động truyền thông. Việc đảm bảo nguồn ngân sách ổn định, bền vững cần được đặt trong quy hoạch ngân sách trung hạn của tỉnh. Cụ thể, giai đoạn 2025 - 2030, tỉnh Hà Giang cần bố trí tối thiểu 50 tỷ đồng từ ngân sách Nhà nước, đồng thời huy động thêm khoảng 20 tỷ đồng từ các tổ chức quốc tế, phi chính phủ và doanh nghiệp theo hình thức xã hội hóa để triển khai các hoạt động truyền thông chính sách dân tộc một cách đồng bộ. Mỗi năm, tối thiểu 10 tỷ đồng cần được phân bổ trực tiếp cho các hoạt động cụ thể như: sản xuất tài liệu truyền thông, xây dựng video song ngữ, tổ chức truyền thông lưu động tại thôn bản, tập huấn truyền thông viên, và ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ truyền thông. Toàn bộ quá trình sử dụng kinh phí cần được công khai, minh bạch, có kiểm toán và đánh giá hiệu quả theo từng quý, từng năm. Trong bối cảnh chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ, ứng dụng công nghệ thông tin đóng vai trò quan trọng trong việc hiện đại hóa hệ thống truyền thông chính sách. Tỉnh Hà Giang cần đầu tư phát triển nền tảng hạ tầng số phù hợp với địa hình phức tạp và khả năng tiếp cận thông tin còn hạn chế của người dân vùng sâu, vùng xa. Trong giai đoạn 2025 - 2027, cần ưu tiên triển khai hạ tầng mạng 4G đến 100% các trung tâm xã và ít nhất 70% các thôn bản trọng điểm, đồng thời xây dựng một Cổng thông tin chính sách dân tộc tích hợp tính năng tương tác, giải đáp chính sách theo thời gian thực, có giao diện thân thiện với người dùng. Bên cạnh đó, cần thiết lập hệ thống quản lý tác nghiệp nội bộ giữa các đơn vị chức năng trong tỉnh trên nền tảng phần mềm đồng bộ, liên thông, phục vụ điều phối nhanh chóng và linh hoạt hoạt động truyền thông chính sách ở cấp cơ sở. Kinh phí đầu tư hạ tầng công nghệ giai đoạn 2025 - 2028 cần dự kiến ở mức 30 tỷ đồng, bao gồm xây dựng nền tảng số, sản xuất nội dung số, và đào tạo cán bộ sử dụng hệ thống.

Kết luận

Hoạt động truyền thông chính sách đang đặt ra những vấn đề cả về lý luận lẫn thực tiễn. Bài tiểu luận đã đi sâu phân tích, góp phần làm rõ hơn lý luận về hoạt động truyền thông chính sách dân tộc, về những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động truyền thông chính sách dân tộc. Trên cơ sở đó, phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động truyền thông chính sách dân tộc tại tỉnh Hà Giang giai đoạn 2021 - 2024, tìm vạch những ưu điểm, hạn chế, nguyên nhân của những ưu điểm, hạn chế. Từ đó, đề xuất kiến nghị và một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động truyền thông chính sách dân tộc tại tỉnh Hà Giang trong thời gian tới.

Hướng tới việc phát triển bền vững đất nước trong bối cảnh kỷ nguyên vươn mình. Đảng ta cần phải làm tốt vai trò lãnh đạo và cầm quyền của mình, đưa ra những quan điểm, chủ trương đúng đắn không chỉ kịp thời mà còn phải mang tính dự báo, đi trước thực tiễn để tạo cơ sở cho Nhà nước cụ thể hóa thành hành động thông qua việc thể chế hóa vào trong hệ thống chính sách, pháp luật. Thực tiễn cho thấy, một mô hình quản lý hay một Nhà nước tốt cũng không thể giải quyết được tất cả mọi hoạt động trong xã hội. Vì thế, điều quan trọng không phải là thay đổi mà thay đổi như thế nào để vừa đảm bảo quyền con người, quyền lợi quốc gia dân tộc, nhưng cũng không tách rời với tương quan xã hội và thế giới luôn luôn biến đổi không ngừng. Vì vậy, thực tiễn và lý luận đòi hỏi chúng ta cần phải tiếp tục nghiên cứu, từng bước xây dựng một hệ thống quan điểm, nguyên tắc, nội dung, phương pháp vững chắc về chức năng của nền hành chính Nhà nước, của hoạt động truyền thông chính sách, xây dựng phương thức lãnh đạo với từng cơ quan trong bộ máy Nhà nước, trong từng lĩnh vực từ trung ương đến cơ sở, nhằm đảm bảo sự phân định giữa chức năng lãnh đạo, cầm quyền của Đảng và chức năng quản lý Nhà nước; đảm bảo tính thống nhất, tính hệ thống, tính hiệu lực, hiệu quả và những chuẩn mực của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

Tài liệu tham khảo:

1. Thủ tướng Chính phủ (2022). Quyết định số 407/QĐ-TTg ngày 30/3/2022 phê duyệt Đề án “Tổ chức truyền thông chính sách có tác động lớn đến xã hội trong quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật giai đoạn 2022 – 2027”.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập II. H. Nxb Chính trị quốc gia Sự thật.

3. Bộ Thông tin và Truyền thông (2022). Công văn số 2137/BTTTT-CBC ngày 03/6/2022 báo cáo Thủ tướng Chính phủ về xây dựng đội ngũ truyền thông chính sách chuyên trách, chuyên nghiệp ở bộ, ngành, địa phương.

4. Nguyễn Đức Thắng (2024), Nâng cao hiệu quả hoạt động truyền thông chính sách. Tạp chí Quản lý nhà nước.

5. Ủy ban Nhân dân tỉnh Hà Giang, Sở Kế hoạch và Đầu tư (2021), Báo cáo đánh giá các cơ chế, chính sách và các Chương trình, Đề án, Phương án, Kế hoạch đang triển khai trên địa bàn tỉnh Hà Giang.

Tin mới hơn

Thẻ OCB tối ưu mọi nhu cầu cho giới trẻ

Thẻ OCB tối ưu mọi nhu cầu cho giới trẻ

Hoàn tiền 15%, hỗ trợ trả góp 0% lãi suất với kỳ hạn lên đến 36 tháng, miễn phí sử dụng phòng chờ sân bay… là những điểm sáng trong hàng loạt các chương trình ưu đãi hấp dẫn dành riêng cho chủ thẻ OCB. Ngoài ra, ngân hàng Phương Đông (OCB) cũng đã phát triển hệ sinh thái thẻ toàn diện, bao gồm cả thẻ tín dụng và thẻ ghi nợ, thiết kế “may đo” phù hợp từng nhu cầu khách hàng. Điều này đã và đang góp phần tái định nghĩa khái niệm về thẻ, đưa thẻ trở thành phương thức thanh toán cực linh hoạt và tối ưu cho giới trẻ hiện nay.
VietinBank 9 tháng đầu năm 2025: Duy trì tăng trưởng vượt trội, kiểm soát tốt chất lượng tài sản

VietinBank 9 tháng đầu năm 2025: Duy trì tăng trưởng vượt trội, kiểm soát tốt chất lượng tài sản

Chiều 13.11, Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam (VietinBank) đã tổ chức thành công Hội nghị cập nhật kết quả kinh doanh quý 3/2025.
Ban Công đoàn Quốc phòng chi hơn 1,6 tỷ đồng hỗ trợ đoàn viên bị bão lũ

Ban Công đoàn Quốc phòng chi hơn 1,6 tỷ đồng hỗ trợ đoàn viên bị bão lũ

Trước những thiệt hại nặng nề do bão số 10 (Bualoi), bão số 11 (MATMO) và lũ lụt miền Trung tháng 10.2025 gây ra, Ban Công đoàn Quốc phòng đã phê duyệt chuyển hơn 1,6 tỷ đồng hỗ trợ 1.324 trường hợp đoàn viên và người lao động (NLĐ) bị ảnh hưởng về nhà ở, tài sản.

Tin tức khác

Mắm moi chua Vích Phương: Di sản ẩm thực được khẳng định bởi OCOP 3 sao

Mắm moi chua Vích Phương: Di sản ẩm thực được khẳng định bởi OCOP 3 sao

Mắm moi chua Vích Phương được làm từ tép biển tươi đánh bắt ở Sầm Sơn (Thanh Hóa). Đây không chỉ là một loại gia vị mà còn thể hiện sự gìn giữ và sáng tạo trong ẩm thực truyền thống.
Xu hướng dòng tiền cuối năm: Tiết kiệm ngân hàng trở thành lựa chọn tối ưu

Xu hướng dòng tiền cuối năm: Tiết kiệm ngân hàng trở thành lựa chọn tối ưu

Cuối năm là thời điểm để đánh giá lại kết quả đạt được trong năm và đặt ra mục tiêu tài chính cho năm mới. Xu hướng mới cho thấy người dùng chuyển từ các kênh đầu tư rủi ro sang các giải pháp tích lũy an toàn, trong đó gửi tiết kiệm ngân hàng trở lại như một trong những lựa chọn dẫn đầu.
Xã rác - có phải lỗi chính tả không?

Xã rác - có phải lỗi chính tả không?

Suốt vài chục ngày gần đây, lượng rác thải ở các xã dọc trên Quốc lộ 9 - cửa ngõ của Hành lang kinh tế Đông Tây (EWEC) và Cửa khẩu quốc tế đường bộ Xuyên Á - bị dồn ứ rất nhiều trong dân cư và nơi công cộng.
BIDV đồng hành triển khai chiến dịch “60 ngày cao điểm hỗ trợ hộ kinh doanh chuyển đổi sang ke khai thuế”

BIDV đồng hành triển khai chiến dịch “60 ngày cao điểm hỗ trợ hộ kinh doanh chuyển đổi sang ke khai thuế”

Ngày 14.11, tại TP. Hồ Chí Minh, Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) và Thuế TP. Hồ Chí Minh đã ký kết Thỏa thuận hợp tác nhằm đồng hành triển khai chiến dịch “60 ngày cao điểm hỗ trợ hộ kinh doanh chuyển đổi mô hình từ thuế khoán sang kê khai”, góp phần thực hiện chủ trương của Bộ Tài chính và ngành Thuế về xóa bỏ thuế khoán, chuyển toàn bộ hộ kinh doanh sang nộp thuế theo phương pháp kê khai từ ngày 01.01.2026.
Ban Công đoàn Quốc phòng hỗ trợ Công ty X20 Thái Nguyên xây nhà "Mái ấm công đoàn, nghĩa tình đồng đội"

Ban Công đoàn Quốc phòng hỗ trợ Công ty X20 Thái Nguyên xây nhà "Mái ấm công đoàn, nghĩa tình đồng đội"

Trong những ngày đầu tháng 10.2025, bão số 11 (MATMO) gây lũ lụt nghiêm trọng tại Thái Nguyên, khiến hơn 300 gia đình và 227 người lao động (NLĐ) tại Công ty TNHH MTV X20 Thái Nguyên thiệt hại nặng nề, ước tính 6 tỷ đồng.
SeABank “xanh hóa” vận hành, nâng cao ý thức bảo vệ môi trường vì mục tiêu net-zero

SeABank “xanh hóa” vận hành, nâng cao ý thức bảo vệ môi trường vì mục tiêu net-zero

Trên hành trình phát triển bền vững và đóng góp cho mục tiêu chung về giảm phát thải carbon, SeABank đẩy mạnh “xanh hóa” vận hành và tối ưu quy trình, kết hợp triển khai các hoạt động xanh nhằm lan tỏa tinh thần vì môi trường.
Xem thêm