Không thể phủ nhận thành tựu chính sách dân tộc ở Tây Bắc
Chính sách và thực tiễn

Không thể phủ nhận thành tựu chính sách dân tộc ở Tây Bắc

CÙ THỊ THANH LAM
Tác giả: CÙ THỊ THANH LAM
Trong dòng chảy phát triển của đất nước, vùng “phên dậu” phía Tây Bắc của Tổ quốc luôn được Đảng, Nhà nước dành sự quan tâm đặc biệt. Bằng nhiều chủ trương, chính sách toàn diện, nhất quán và nhân văn, đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào các dân tộc nơi đây đã có bước chuyển mình sâu sắc. Bởi vậy, dù các thế lực thù địch không ngừng tung ra luận điệu xuyên tạc, phủ nhận thành tựu, gieo rắc tâm lý hoài nghi nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc thì thực tiễn sinh động của Tây Bắc hôm nay chính là lời đáp trả đanh thép, bác bỏ mọi luận điệu sai trái ấy.

Tầm nhìn chiến lược của Đảng và Nhà nước

Ngay từ khi mới giành được chính quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Các dân tộc đều bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng tiến bộ”. Tư tưởng ấy đã trở thành nền tảng xuyên suốt trong đường lối của Đảng, được thể chế hóa thành các chủ trương, chính sách cụ thể, toàn diện và lâu dài.

Trải qua gần bốn thập niên đổi mới, chính sách dân tộc của Việt Nam luôn được đặt ở vị trí chiến lược trong phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh.

Hàng loạt chương trình, dự án lớn đã được triển khai: Chương trình 135, Nghị quyết 30a về giảm nghèo nhanh và bền vững, Nghị quyết 88/2019/QH14 và Nghị quyết 120/2020/QH14 của Quốc hội về phê duyệt và triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030.

Tư duy phát triển vùng dân tộc và miền núi không chỉ dừng ở việc “giúp đỡ” mà đã chuyển mạnh sang trao quyền, khuyến khích tự vươn lên, phát huy nội lực, gắn kết chặt chẽ với bảo tồn bản sắc văn hóa, giữ vững an ninh biên giới và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Tây Bắc từ gian khó đến bứt phá

Vùng Tây Bắc trước 1.7.2025 gồm sáu tỉnh: Hòa Bình, Sơn La, Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái - nơi sinh sống của hơn 30 dân tộc anh em. Trước kia, đây là địa bàn có điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, hạ tầng yếu kém, tỷ lệ hộ nghèo cao. Nhưng nhờ chính sách dân tộc đúng đắn, sự vào cuộc đồng bộ của hệ thống chính trị, Tây Bắc hôm nay đang vươn lên mạnh mẽ.

Từ những con đường bê tông uốn lượn nối bản với bản, điện sáng len lỏi đến từng nếp nhà, đến những trường học, trạm y tế khang trang, diện mạo nông thôn miền núi đã thay đổi từng ngày.

Hàng loạt công trình trọng điểm được đầu tư như cầu Hang Tôm, cao tốc Nội Bài - Lào Cai, tuyến cao tốc Hòa Bình - Mộc Châu… đã mở ra cơ hội mới cho phát triển kinh tế, du lịch, giao thương hàng hóa.

Theo Ủy ban Dân tộc (nay là Bộ Dân tộc và Tôn giáo), giai đoạn 2016-2023, tỷ lệ hộ nghèo ở các tỉnh Tây Bắc giảm bình quân từ 5-7% mỗi năm; nhiều xã vùng cao đã “thoát nghèo” và đang hướng tới xây dựng nông thôn mới. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực: Từ nông nghiệp tự cung, tự cấp sang hàng hóa, du lịch cộng đồng, trồng cây dược liệu, cây ăn quả, chăn nuôi gia súc lớn.

Ở Sơn La, mô hình trồng cây ăn quả trên đất dốc đã đưa địa phương trở thành “thủ phủ nông sản vùng cao”, với hơn 82.000 ha cây ăn quả, giá trị xuất khẩu đạt hàng trăm triệu USD mỗi năm.

Ở Lai Châu, cây mắc ca, sâm Lai Châu, chè cổ thụ đang giúp người dân xóa nghèo bền vững.

Ở Điện Biên, các bản tái định cư sau dự án thủy điện Sơn La đã ổn định đời sống, hình thành nhiều mô hình phát triển du lịch sinh thái, văn hóa.

Ở Yên Bái (cũ), cây quế trở thành “cây làm giàu” chủ lực, với hơn 80.000 ha, đang tạo sinh kế ổn định cho hàng chục nghìn hộ dân, góp phần xây dựng nông thôn mới và phát triển kinh tế xanh, bền vững.

Không chỉ kinh tế, văn hóa mà con người Tây Bắc cũng đang “nở hoa” trong tiến trình đổi mới. Các lễ hội Gầu Tào, Kin Lẩu Khẩu Mẩu, Xên Mường… được khôi phục, bản sắc dân tộc được gìn giữ và quảng bá gắn với phát triển du lịch cộng đồng. Ngày càng nhiều con em dân tộc thiểu số được đào tạo bài bản, trở thành cán bộ lãnh đạo, quản lý ở cơ sở. Hiện tỷ lệ cán bộ là người dân tộc thiểu số tại các tỉnh Tây Bắc chiếm hơn 35%, góp phần củng cố niềm tin và sự đồng thuận của Nhân dân.

Không dừng lại ở những kết quả hiện hữu, Lai Châu còn thể hiện khát vọng vươn lên bằng tầm nhìn chiến lược, cụ thể hóa trong Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh, nhiệm kỳ 2025–2030 với mục tiêu đến năm 2030, đưa Lai Châu trở thành điểm sáng phát triển toàn diện của vùng Tây Bắc, trong đó hạ tầng giao thông được xác định là một trong ba đột phá chiến lược. Tỉnh đang tập trung nguồn lực mở tuyến cao tốc nối Lai Châu - Lào Cai - Hà Nội, xây dựng đường hầm xuyên đèo Hoàng Liên rút ngắn thời gian di chuyển và quy hoạch xây dựng sân bay Lai Châu để kết nối giao thương, du lịch và bảo đảm quốc phòng - an ninh vùng biên.

Nếu Lai Châu đang khẳng định vị thế bằng những đột phá về hạ tầng giao thông, thì Lào Cai lại đang hướng đến một tầm nhìn mang tính vùng và quốc tế. Theo Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Lào Cai nhiệm kỳ 2025–2030, địa phương đặt mục tiêu trở thành cực tăng trưởng, trung tâm kết nối giao thương kinh tế quốc tế; phát triển theo hướng xanh, hài hòa, bản sắc, hạnh phúc. Đây không chỉ là định hướng phát triển kinh tế - xã hội mà còn là minh chứng sinh động cho hiệu quả của chính sách dân tộc và vùng miền trong thực tiễn.

Không chỉ dừng lại ở định hướng của từng địa phương, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước đang được triển khai đồng bộ, mạnh mẽ trên phạm vi cả nước.

Trong năm 2025, Bộ Dân tộc và Tôn giáo đã chuẩn bị nhiều nguồn lực để triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn II về phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số, với điểm nhấn là xóa nhà tạm, nhà dột nát.

Đến đầu tháng 5, cả nước đã hỗ trợ xóa nhà tạm, nhà dột nát được 208.357 căn (gồm khánh thành 108.956 căn và khởi công xây dựng mới 99.401 căn), trong đó riêng vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi là hơn 106.000 căn.

Hàng trăm nghìn hộ dân nghèo ở Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ đã được hỗ trợ nhà ở ổn định - một kết quả mang ý nghĩa chính trị, nhân văn sâu sắc, góp phần củng cố niềm tin của Nhân dân vào Đảng và Nhà nước.

Thực tiễn bác bỏ mọi luận điệu xuyên tạc

Dù thành tựu là rõ ràng, song các thế lực thù địch vẫn không ngừng tung ra các luận điệu sai trái, cho rằng chính sách dân tộc chỉ “hình thức”, “thiếu hiệu quả”, hoặc “phân biệt đối xử”.

Trên không gian mạng, chúng lợi dụng những khó khăn, chênh lệch phát triển giữa miền núi và đồng bằng để kích động tâm lý bất mãn, kêu gọi “tự trị”, “dân tộc độc lập”. Đây là âm mưu hết sức thâm độc, nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc - nền tảng vững chắc của cách mạng Việt Nam.

Tuy nhiên, sự thật không thể bị bóp méo. Thực tiễn Tây Bắc hôm nay đã chứng minh điều ngược lại. Chính đồng bào các dân tộc là những người cảm nhận rõ nhất sự đổi thay từ chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.

Ở bất cứ bản làng nào, từ Mường Tè (Lai Châu) đến Mường La (Sơn La), từ Tủa Chùa (Điện Biên) đến Bắc Hà (Lào Cai), ta đều thấy niềm tin và lòng biết ơn Đảng qua những công trình, con đường, mái trường, những ngôi nhà mới mọc lên giữa đại ngàn.

Nhiều già làng, trưởng bản, người có uy tín trong cộng đồng đã trở thành “cột mốc sống” nơi biên giới, kiên quyết phản bác thông tin sai trái, vận động con cháu không nghe theo luận điệu kích động. Hệ thống chính trị ở cơ sở, lực lượng vũ trang, đoàn thể và báo chí đã phối hợp chặt chẽ, đưa thông tin chính thống đến từng bản làng, giúp đồng bào hiểu rõ bản chất của những chiêu trò chống phá.

Không chỉ phản bác bằng lý lẽ, thực tế phát triển chính là “bằng chứng thuyết phục” nhất. Sự cải thiện rõ rệt về hạ tầng, giáo dục, y tế, thu nhập và văn hóa cộng đồng là những minh chứng sống động mà không thế lực nào có thể phủ nhận. Đó là kết quả của đường lối đúng đắn, sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, sự vào cuộc đồng bộ của Nhà nước và sự hưởng ứng tích cực của Nhân dân.

Phát triển Tây Bắc bền vững

Đảng ta luôn xác định phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số không chỉ là nhiệm vụ kinh tế - xã hội, mà còn là vấn đề chiến lược về chính trị, quốc phòng, an ninh và đoàn kết dân tộc. Bởi vậy, song song với việc đầu tư hạ tầng, Nhà nước tập trung đào tạo cán bộ, phát triển nguồn nhân lực, nâng cao dân trí, chăm lo văn hóa và bảo tồn bản sắc dân tộc.

Các tỉnh Tây Bắc đã tích cực triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số giai đoạn 2021-2030, với hàng nghìn dự án cụ thể: Hỗ trợ sản xuất, đa dạng hóa sinh kế, bảo tồn văn hóa, giảm nghèo đa chiều, cải thiện nhà ở, nước sạch, thông tin. Mục tiêu không chỉ là xóa đói giảm nghèo mà còn là nâng cao chất lượng sống, khơi dậy khát vọng phát triển của mỗi người dân.

Những năm gần đây, nhiều địa phương Tây Bắc đã chủ động “chuyển mình” mạnh mẽ trong tư duy phát triển: Từ chỗ trông chờ, ỷ lại vào hỗ trợ, nay chuyển sang phát huy nội lực, tận dụng tiềm năng bản địa. Từ đó xuất hiện nhiều mô hình kinh tế hợp tác, du lịch cộng đồng, sản phẩm OCOP đặc trưng, đưa hình ảnh Tây Bắc lan tỏa khắp cả nước và vươn ra thế giới.

Niềm tin của đồng bào đối với Đảng, Nhà nước được củng cố sâu sắc hơn bao giờ hết. Ở nơi địa đầu Tổ quốc, những người con dân tộc Mông, Dao, Thái, Tày, Khơ Mú… luôn chung tay bảo vệ biên giới, giữ gìn an ninh trật tự, góp phần quan trọng vào sự ổn định chính trị của đất nước.

Không thể phủ nhận vì đó là sự thật của cuộc sống

Thành tựu chính sách dân tộc ở Tây Bắc không chỉ thể hiện qua những con số, công trình hay nghị quyết mà còn nằm trong ánh mắt rạng rỡ của người dân khi mùa vụ bội thu, trong tiếng khèn, điệu múa vang vọng trong các lễ hội mùa xuân, trong những lớp học vùng cao rộn ràng tiếng trẻ thơ. Đó là sự đổi thay toàn diện từ hạ tầng, sinh kế đến con người và niềm tin.

Chính niềm tin ấy là “lá chắn” vững chắc nhất trước mọi âm mưu xuyên tạc, kích động. Bởi khi Nhân dân tin vào Đảng, tin vào con đường đã chọn thì không thế lực nào có thể chia rẽ hay làm lung lay khối đại đoàn kết dân tộc. Công cuộc phát triển Tây Bắc vẫn còn nhiều khó khăn: Địa hình hiểm trở, biến đổi khí hậu, nguy cơ tái nghèo, thiếu nguồn lực đầu tư. Nhưng với nền tảng chính trị ổn định, sự quan tâm của Trung ương, cùng tinh thần tự lực, đoàn kết của đồng bào, vùng đất này sẽ tiếp tục vươn lên mạnh mẽ, xứng đáng với vị thế “phên dậu” vững chắc của Tổ quốc.

Không thể phủ nhận bởi đó là sự thật của cuộc sống, của niềm tin và của lòng dân. Thành tựu của chính sách dân tộc ở Tây Bắc không đến từ may mắn hay ngẫu nhiên mà là kết quả của một quá trình kiên định, nỗ lực và đầy nhân văn của Đảng, Nhà nước và Nhân dân.

Mọi luận điệu xuyên tạc, bóp méo, phủ nhận chỉ là những tiếng vọng yếu ớt trước thực tiễn đang ngày càng rạng rỡ. Bảo vệ sự thật ấy, lan tỏa niềm tin ấy cũng chính là góp phần làm thất bại âm mưu “diễn biến hòa bình”, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, khẳng định chính sách dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ đúng đắn mà còn là sức mạnh trường tồn của dân tộc.

Nhìn lại chặng đường đã qua có thể khẳng định, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta không chỉ mang ý nghĩa phát triển mà còn là sợi dây gắn kết cộng đồng các dân tộc anh em, tạo nền tảng vững chắc cho khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Từ miền núi Tây Bắc đến Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, những đổi thay trong đời sống, hạ tầng, sinh kế của đồng bào là minh chứng sinh động cho đường lối đúng đắn, nhân văn ấy.

Giữa đại ngàn Tây Bắc hôm nay, niềm tin của Nhân dân trong công cuộc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phản bác các luận điệu chia rẽ đang được thắp sáng trong từng mái nhà, từng con đường, từng nụ cười của đồng bào các dân tộc, để nơi đây không chỉ là “vùng cao” mà đang dần trở thành “vùng sáng”, biểu tượng của sức sống, bản lĩnh và tinh thần đại đoàn kết dân tộc trong thời kỳ mới.

Tin tức khác

Kỳ 5: Nghị quyết chỉ thật sự là “ngọn đuốc” khi chạm đến trái tim Nhân dân

Kỳ 5: Nghị quyết chỉ thật sự là “ngọn đuốc” khi chạm đến trái tim Nhân dân

Sức sống của nghị quyết không nằm ở câu chữ mà ở chỗ nó được dân tin, dân làm và dân thụ hưởng và Mặt trận chính là chiếc cầu nối để “chú thích trên nghị quyết” trở thành “bước chân trên đường làng, khu công nghiệp và từng mái nhà”.
Kỳ 4: Khát vọng Việt Nam hùng cường trong tầm nhìn toàn cầu

Kỳ 4: Khát vọng Việt Nam hùng cường trong tầm nhìn toàn cầu

Các nghị quyết mới ban hành không chỉ là định hướng chiến lược mà còn là lời hiệu triệu hành động, khơi dậy khát vọng dân tộc, lan tỏa niềm tin và tinh thần đổi mới tới từng người Việt ở trong và ngoài nước
Kỳ 2: Dấu ấn tầm nhìn chiến lược của Tổng Bí thư Tô Lâm trên hành trình kiến tạo Quốc gia số

Kỳ 2: Dấu ấn tầm nhìn chiến lược của Tổng Bí thư Tô Lâm trên hành trình kiến tạo Quốc gia số

Sau khi Nghị quyết 57-NQ/TW được triển khai và đi vào cuộc sống, một diện mạo mới của một “Quốc gia số” đang hình thành rõ nét. toàn hệ thống chính trị đã vào cuộc quyết liệt, đồng bộ để thúc đẩy phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.
Kỳ 5: Quốc hội không chỉ làm luật mà phải kiến tạo thể chế để dẫn dắt phát triển

Kỳ 5: Quốc hội không chỉ làm luật mà phải kiến tạo thể chế để dẫn dắt phát triển

Trong cuộc trao đổi với Tạp chí Lao động, Đoàn thể, đồng chí Nguyễn Đức Kiên, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Phó Chủ tịch Quốc hội phân tích sâu về tư duy “kiến tạo thể chế”, coi đây là chìa khóa “then chốt” để nâng cao năng lực quản trị quốc gia và mở đường cho sự phát triển bền vững của đất nước trong giai đoạn mới.
Kỳ 3: Xây dựng con người, bồi đắp văn hóa: Đảng nói đi đôi với làm

Kỳ 3: Xây dựng con người, bồi đắp văn hóa: Đảng nói đi đôi với làm

Trong mọi bước đi lịch sử, Đảng ta luôn khẳng định con người là trung tâm, là mục tiêu và động lực của phát triển.
Kỳ 1: Từ tư tưởng Mác – Lênin, Hồ Chí Minh đến Nghị quyết 57-NQ/TW: Dấu ấn mới trên con đường vươn mình

Kỳ 1: Từ tư tưởng Mác – Lênin, Hồ Chí Minh đến Nghị quyết 57-NQ/TW: Dấu ấn mới trên con đường vươn mình

Từ khi C.Mác khẳng định “Khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp”, nhân loại đã bước sang một kỷ nguyên phát triển mới, nơi tri thức và công nghệ giữ vai trò trung tâm trong sự vận động của xã hội.
Xem thêm