Những vấn đề quản lý nhà nước cần quan tâm để hỗ trợ công đoàn trong thời gian tới
Nghiên cứu

Những vấn đề quản lý nhà nước cần quan tâm để hỗ trợ công đoàn trong thời gian tới

PGS. TS. Nguyễn An Ninh  -  Viện CNXH khoa học, Học viện CTQG Hồ Chí Minh
Quyền thành lập công đoàn được hiểu là quyền thành lập hoặc tham gia thành lập công đoàn cơ sở (CĐCS) hoặc công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở, công đoàn ngành nghề trong hệ thống của Tổng LĐLĐ Việt Nam, do Đoàn Chủ tịch Tổng Liên đoàn quyết định thành lập. Có thể hiểu, đây mới chỉ là quyền của Tổng LĐLĐ Việt Nam về thành lập các tổ chức chi nhánh mang tính đại diện cho mình, là quyền của NLĐ được tham gia công đoàn hiện có, chứ chưa phải là quyền thành lập hay lựa chọn thiết chế đại diện cho bản thân họ.
Những vấn đề quản lý nhà nước cần quan tâm để hỗ trợ công đoàn trong thời gian tới

Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam Nguyễn Đình Khang chủ trì Hội nghị lần thứ 22 khóa XII Đoàn Chủ tịch Tổng LĐLĐ Việt Nam, tháng 9/2021.

Thứ nhất, phạm vi “quyền thành lập công đoàn” ở Việt Nam hiện nay dường như bị giới hạn trong một hệ thống đã có

Thực trạng trên bắt nguồn từ các quy định của Luật Công đoàn 2012. Về vấn đề quyền thành lập công đoàn của NLĐ, Luật Công đoàn quy định: “Trình tự, thủ tục thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn theo quy định của Điều lệ Công đoàn Việt Nam” và “Hệ thống tổ chức Công đoàn gồm có Tổng LĐLĐ Việt Nam và công đoàn các cấp theo quy định của Điều lệ Công đoàn Việt Nam; CĐCS được tổ chức trong cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, đơn vị, doanh nghiệp, tổ chức khác có sử dụng lao động theo quy định của pháp luật về lao động, cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam”.

Do mặc định một tổ chức công đoàn duy nhất, được tổ chức theo hệ thống gồm Tổng LĐLĐ Việt Nam và các cấp công đoàn trực thuộc Tổng LĐLĐ Việt Nam, nên quyền thành lập công đoàn ở Việt Nam vẫn được hiểu là thành lập thêm một tổ chức (thường là CĐCS) trong một hệ thống công đoàn chung. Việc đánh giá thực thi quyền thành lập công đoàn vì vậy cũng mới chỉ được xét ở phương diện là nơi nào có NLĐ thì đã thành lập tổ chức CĐCS chưa mà thôi.

Những vấn đề quản lý nhà nước cần quan tâm để hỗ trợ công đoàn trong thời gian tới

Lãnh đạo Liên đoàn Lao động TP. Cao Lãnh (Đồng Tháp) trao Quyết định kết nạp đoàn viên và thành lập công đoàn cơ sở cho Công ty Cổ phần Thương mại xuất nhập khẩu Huy Tiến Dũng.

Thứ hai, về khả năng thi hành quyền thành lập công đoàn

Quyền tự do thành lập tổ chức đại diện NLĐ có thể bằng nhiều cách thức khác nhau - tự thành lập hay gia nhập một tổ chức đã có sẵn trước đó và hoàn toàn không có một sự ràng buộc nào. Việc gia nhập tổ chức phải có ít nhất hai điều kiện: một là, bên gia nhập phải đủ điều kiện mà tổ chức yêu cầu, đồng thời phải tự nguyện xin vào tổ chức; hai là, phải được đồng ý chấp nhận theo quy chế nội bộ của tổ chức. Quyền gia nhập tổ chức Công đoàn của NLĐ Việt Nam hiện đang được hiểu theo nghĩa thứ nhất.

Ở nước ta hiện nay chỉ có một tổ chức Công đoàn duy nhất, được pháp luật công nhận là Tổng LĐLĐ Việt Nam. Quyền gia nhập công đoàn của NLĐ, được Điều lệ Công đoàn Việt Nam quy định: "CNVCLĐ Việt Nam làm công, hưởng lương; NLĐ tự do hợp pháp, không phân biệt nghề nghiệp, nam nữ, tín ngưỡng, nếu tán thành Điều lệ Công đoàn Việt Nam, tự nguyện sinh hoạt trong một tổ chức cơ sở của công đoàn, đóng đoàn phí theo quy định thì được gia nhập công đoàn”.

Theo đó, quyền gia nhập công đoàn của NLĐ chỉ là quyền tự nguyện gia nhập vào CĐCS thuộc hệ thống của Tổng LĐLĐ Việt Nam. Trên thực tế, quyền này trong các doanh nghiệp được hiểu và thực hiện theo xu hướng là chấp nhận hay không và tham gia hay chưa vào tổ chức Công đoàn hiện có, chứ chưa phải lựa chọn tổ chức công đoàn nào để họ gia nhập.

Vấn đề này cũng đã được một nhà quản lý gọi là “điểm vênh cơ bản nhất và lớn nhất” của mô hình công đoàn nước ta: “Tuy nhiên, do những điều kiện chính trị - kinh tế - xã hội và lịch sử đặc thù, cụ thể mà hiện nay quyền tự do liên kết theo tiêu chuẩn lao động quốc tế vẫn còn có sự “vênh” với quy định của Việt Nam.

Một trong những điểm vênh cơ bản và lớn nhất là vị trí độc tôn của công đoàn. Theo quy định của Hiến pháp và pháp luật Việt Nam thì chúng ta chỉ có một hệ thống công đoàn thống nhất, theo đó tất cả mọi công đoàn phải được Tổng LĐLĐ Việt Nam thừa nhận và phải là thành viên của Tổng LĐLĐ Việt Nam. Do vậy, đây không phải là việc đảm bảo tự do liên kết theo đúng nghĩa được nêu trong Công ước 87 của ILO”

Những vấn đề quản lý nhà nước cần quan tâm để hỗ trợ công đoàn trong thời gian tới

Hiện có khoảng trên 40% người lao động trong các doanh nghiệp tư nhân là thành viên của tổ chức Công đoàn. Trong ảnh: Công nhân may Công ty TNHH May Sao Việt (Kim Bảng, Hà Nam). Nguồn: hanam.vn

Một thực tế khác là rất nhiều doanh nghiệp đã hoạt động nhiều năm, đủ điều kiện để thành lập nhưng vẫn chưa có tổ chức CĐCS. Theo đó nhiều NLĐ chưa có được điều kiện cần để thực thi quyền tự do liên kết.

Theo Khoản 1, Điều 16, Luật Công đoàn 2012 và Nghị định số 98/2014/NĐ-CP ngày 24/10/2014 của Chính phủ thì công đoàn được thành lập ở doanh nghiệp có từ 5 đoàn viên công đoàn hoặc NLĐ có đơn tự nguyện gia nhập công đoàn Việt Nam, đủ điều kiện thành lập công đoàn theo quy định của Luật Công đoàn và Điều lệ Công đoàn Việt Nam.

Chậm nhất sau 6 tháng thành lập và đi vào hoạt động, công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở phối hợp cùng doanh nghiệp thành lập tổ chức Công đoàn theo quy định của Bộ luật Lao động; sau thời điểm này, nếu chưa thành lập được công đoàn, công đoàn cấp trên có quyền chỉ định BCH lâm thời để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của NLĐ, tập thể lao động.

Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tính đến 2020, cả nước có 535.920 doanh nghiệp, chủ yếu là doanh nghiệp ngoài quốc doanh; sử dụng khoảng trên 12 triệu lao động; ngoài ra còn có khoảng hơn 20 triệu lao động trong khu vực phi kết cấu.

Tuy nhiên, theo Tổng LĐLĐ Việt Nam, ở khu vực ngoài nhà nước bao gồm các đơn vị sự nghiệp ngoài công lập, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp dân doanh Việt Nam mới chỉ có 42.207 CĐCS với 5.022.251 đoàn viên công đoàn. Như vậy, xét theo tỷ lệ, chỉ có khoảng trên 40% NLĐ trong các doanh nghiệp tư nhân là thành viên của tổ chức Công đoàn.

Thứ ba, về cơ chế hỗ trợ giữa các cấp công đoàn trong các doanh nghiệp

Theo quy định của Điều 17, Luật Công đoàn: “Ở cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp chưa thành lập CĐCS, công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở có quyền, trách nhiệm đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của NLĐ khi được NLĐ ở đó yêu cầu”. Khoản 3, Điều 188, Bộ luật Lao động quy định: “Ở những nơi chưa thành lập tổ chức CĐCS, công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở thực hiện trách nhiệm như CĐCS”.

Quy định này nhằm khắc phục thực trạng còn rất nhiều doanh nghiệp chưa thành lập tổ chức Công đoàn, từ đó bảo vệ tốt hơn quyền, lợi ích của NLĐ, tập thể lao động.

Những vấn đề quản lý nhà nước cần quan tâm để hỗ trợ công đoàn trong thời gian tới

Công đoàn các Khu công nghiệp tỉnh Bắc Ninh tổ chức lễ ký kết phúc lợi đoàn viên và tập huấn Điều lệ Công đoàn trong các Khu công nghiệp.

Tuy nhiên, quy định công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở thực hiện vai trò đại diện cho tập thể lao động tại nơi chưa có CĐCS, có thể làm phát sinh một số điểm chưa hợp lý. Ví dụ, cán bộ công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở không do NLĐ trực tiếp bầu ra thì có đủ khả năng, điều kiện để đại diện cho ý chí chung của tập thể lao động không? Hoặc, khi không hoạt động thường xuyên tại doanh nghiệp, liệu cán bộ công đoàn này có đủ am hiểu về tình hình thực tế của đơn vị (công nghệ, vốn, doanh thu, quản lý lao động…) cũng như điều kiện của NLĐ, tập thể lao động (số lượng, chất lượng lao động, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, thu nhập, tâm tư…) để đưa ra quan điểm, ý kiến xác đáng trong việc bảo vệ NLĐ không?

Ngoài ra, trong bối cảnh có nhiều doanh nghiệp, đơn vị sử dụng lao động trên địa bàn, với số chỉ tiêu biên chế có hạn, công đoàn cấp trên cơ sở liệu có thể đủ nhân lực để thực hiện tốt vai trò này?

Thực tế cũng cho thấy, vì không có CĐCS, hoặc có nhưng không phát huy được vai trò, nhiều doanh nghiệp phải đối mặt với những rắc rối pháp lý không đáng có. Do đó, đảm bảo quyền thành lập công đoàn của NLĐ trong các doanh nghiệp ở nước ta hiện nay cần được nhìn nhận như một điều kiện cần để phát triển sản xuất, bình ổn quan hệ lao động bên cạnh khía cạnh thực hiện một quyền công đoàn của NLĐ.

Đó là những vấn đề quản lý Nhà nước cần quan tâm để hỗ trợ công đoàn trong thời gian tới.

Những vấn đề cần quan tâm khi thực hiện các cam kết về lao động, công đoàn Những vấn đề cần quan tâm khi thực hiện các cam kết về lao động, công đoàn

Việt Nam đã tham gia vào các “Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới” (FTA). Một trong các vấn đề đặt ra từ ...

Một số vấn đề then chốt để xây chắc nền móng tổ chức Công đoàn Việt Nam Một số vấn đề then chốt để xây chắc nền móng tổ chức Công đoàn Việt Nam

Tại 03 kỳ liên tiếp các tháng 7, 8, 9, Tạp chí Lao động và Công đoàn đã đăng tải từng phần bài viết quan ...

Những vấn đề đặt ra đối với tổ chức và hoạt động công đoàn Những vấn đề đặt ra đối với tổ chức và hoạt động công đoàn

92 năm ra đời và phát triển, tổ chức Công đoàn Việt Nam ngày càng khẳng định vị trí quan trọng trong hệ thống chính ...

Tin mới hơn

Lý luận gắn với thực tiễn theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Lý luận gắn với thực tiễn theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh luôn rất coi trọng lý luận, việc học tập lý luận của cán bộ, đảng viên và toàn thể nhân dân.
Tăng cường khối đoàn kết xây dựng Đảng vững mạnh theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh

Tăng cường khối đoàn kết xây dựng Đảng vững mạnh theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh

Đoàn kết, gắn bó chặt chẽ nhằm phát huy sức mạnh của cộng đồng để chống thiên tai và ngoại xâm là truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam. Đến Hồ Chí Minh thì “Đại đoàn kết được xây dựng trên cả một lý luận chứ không còn đơn thuần là tình cảm tự nhiên của người trong một nước phải thương nhau cùng” , nghĩa là, trong tư duy lý luận của Hồ Chí Minh, tư tưởng đại đoàn kết được hình thành và phát triển trên một nền tảng lý luận khoa học và thực tiễn hết sức phong phú, sâu sắc.
Phát huy nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách trong công tác xây dựng Đảng

Phát huy nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách trong công tác xây dựng Đảng

Học tập và vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, từ khi thành lập Đảng đến nay Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng nguyên tắc tập trung dân chủ, coi đó là nguyên tắc số một trong xây dựng Đảng. Trong điều kiện Đảng cầm quyền ở nước ta, biểu hiện cụ thể của nguyên tắc đó chính là nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Đây vừa là một nguyên tắc trong hoạt động lãnh đạo của Đảng, vừa là một nội dung biểu hiện của nguyên tắc tập trung dân chủ. Nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách góp phần xây dựng Đảng vững mạnh trên cả ba mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức.

Tin tức khác

Những giá trị lý luận về phong trào cách mạng và Đảng Cộng sản ở Việt Nam của đồng chí Nguyễn Đức Cảnh

Những giá trị lý luận về phong trào cách mạng và Đảng Cộng sản ở Việt Nam của đồng chí Nguyễn Đức Cảnh

Nguyễn Đức Cảnh sinh ra và lớn lên trong một gia đình nhà nho nghèo, được người cha dạy chữ, được tiếp thu truyền thống yêu nước của quê hương, gia đình, dòng họ; lớn lên trong bối cảnh đất nước lầm than, bị ngoại bang đô hộ, lại sớm được đọc và chịu ảnh hưởng của một số tác phẩm, bài viết của Nguyễn Ái Quốc, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh - những nhà yêu nước Việt Nam.
Vai trò của đồng chí Nguyễn Đức Cảnh trong việc sáng lập và lãnh đạo Tổng Công hội Đỏ Bắc Kỳ

Vai trò của đồng chí Nguyễn Đức Cảnh trong việc sáng lập và lãnh đạo Tổng Công hội Đỏ Bắc Kỳ

Tổng Công hội Đỏ Bắc Kỳ, tổ chức tiền thân của Tổng LĐLĐ Việt Nam ra đời ngày 28/7/1929 là kết quả tất yếu của phong trào công nhân, là thắng lợi của đường lối công vận của Đảng ta và đáp ứng yêu cầu bức thiết của phong trào công nhân đang phát triển mạnh mẽ, đánh dấu sự trưởng thành về tổ chức của giai cấp công nhân Việt Nam.
Đồng chí Nguyễn Đức Cảnh và những cống hiến lịch sử thúc đẩy Cách mạng Việt Nam

Đồng chí Nguyễn Đức Cảnh và những cống hiến lịch sử thúc đẩy Cách mạng Việt Nam

Trở về Hà Nội từ Quảng Châu (Trung Quốc) sau khi đã nghiên cứu, tìm hiểu và gia nhập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, Nguyễn Đức Cảnh chính thức ly khai khỏi Nam Đồng Thư xã (lúc này đã chuyển thành Việt Nam Quốc dân Đảng) và hoạt động trong tổ chức Thanh niên Bắc Kỳ với việc bí mật tổ chức in ấn tài liệu tuyên truyền trong các nhà máy, hầm mỏ để giác ngộ quần chúng công nhân.
Di sản vượt thời gian của đồng chí Hoàng Quốc Việt

Di sản vượt thời gian của đồng chí Hoàng Quốc Việt

“Làm chủ không phải là khẩu hiệu suông. Làm chủ là phải làm chủ được sản xuất, làm chủ đời sống - cả chỗ ở, chỗ học, chỗ nghỉ… Đó là tư tưởng xuyên suốt của bác Hoàng Quốc Việt khi giữ cương vị đứng đầu Tổng Công đoàn Việt Nam” - ông Nguyễn Túc, nguyên thư ký riêng của đồng chí Hoàng Quốc Việt, khẳng định.
Vẹn nguyên tinh thần của lãnh tụ Nguyễn Đức Cảnh

Vẹn nguyên tinh thần của lãnh tụ Nguyễn Đức Cảnh

Trong tiến trình lịch sử cách mạng Việt Nam, giai cấp công nhân và báo chí cách mạng đã đóng vai trò then chốt trong việc thúc đẩy những chuyển biến sâu rộng của xã hội, đặc biệt là trong cuộc đấu tranh chống ách đô hộ của thực dân Pháp và quá trình giải phóng dân tộc. Đóng góp quan trọng trong công cuộc này không thể không nhắc đến đồng chí Nguyễn Đức Cảnh, một trong những lãnh tụ tiêu biểu của phong trào công nhân Việt Nam, đồng thời là người sáng lập và lãnh đạo tổ chức Công đoàn Việt Nam.
Công đoàn Việt Nam: 96 năm son sắt một sứ mệnh tiên phong

Công đoàn Việt Nam: 96 năm son sắt một sứ mệnh tiên phong

Trải qua 96 năm hình thành và phát triển, gắn liền với những chặng đường đấu tranh cách mạng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của dân tộc, Công đoàn Việt Nam luôn khẳng định vị thế là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân, là chỗ dựa tin cậy của người lao động và là cơ sở chính trị - xã hội vững chắc của Đảng và Nhà nước ta.
Xem thêm