| Cống hiến của đồng chí Hoàng Quốc Việt trên cương vị người đứng đầu tổ chức Công đoàn Việt Nam |
Làm chủ không phải là khẩu hiệu suông
Giữ cương vị Chủ tịch Tổng Công đoàn Việt Nam (nay là Tổng LĐLĐ Việt Nam) trong giai đoạn đất nước kháng chiến và kiến thiết - đồng chí Hoàng Quốc Việt đã dành trọn tâm huyết xây dựng quyền làm chủ thực chất cho công nhân, đặt nền tảng bền vững cho chính sách lao động, tiền lương và đời sống người lao động, để từ đó tổ chức Công đoàn trở thành điểm tựa không thể thay thế.
Trong bối cảnh nước ta chuyển sang xây dựng chủ nghĩa xã hội sau năm 1954, đồng chí Hoàng Quốc Việt đặc biệt nhấn mạnh vai trò trung tâm của giai cấp công nhân. Quyền làm chủ không chỉ thể hiện trong hội nghị công nhân viên chức mà còn phải cụ thể hóa trong từng chính sách quản trị nhà máy, phân phối thu nhập, thiết kế môi trường sống.
“Muốn đoàn kết thực sự thì phải có dân chủ thực sự”, “Công đoàn là trường học của chủ nghĩa xã hội” - hai tư tưởng lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn được đồng chí Hoàng Quốc Việt quán triệt sâu sắc và chuyển hóa thành hành động.
![]() |
| Đồng chí Hoàng Quốc Việt đọc diễn văn khai mạc Đại hội Công đoàn toàn quốc lần thứ 2, Hà Nội tháng 2/1961. Ảnh: Tư liệu. |
Ông Nguyễn Túc nhớ lại: “Mỗi khi đến thăm xí nghiệp, bác (Hoàng Quốc Việt - PV) không bao giờ cưỡi ngựa xem hoa. Bác nhìn từng nhà ăn, nhà ở, nhà trẻ… Nếu thấy công nhân không có chỗ gửi con, bác về họp ngay, làm việc trực tiếp với giám đốc, rồi đề nghị lãnh đạo địa phương phải giải quyết. Với lao động nữ, bác đã quan tâm đến vấn đề nghỉ sau sinh, có chế độ bồi dưỡng đường, sữa để phục hồi sức khỏe...”
Tầm nhìn ấy đã góp phần định hình nên một hệ sinh thái lao động toàn diện, điển hình như khu tập thể Cao - Xà - Lá, Supe Lâm Thao, Nhiệt điện Phả Lại, hay hàng loạt khu công nghiệp được thiết kế kèm trường học, nhà trẻ, nhà nghỉ, nhà ăn - nơi người công nhân không chỉ làm việc mà còn được chăm lo toàn diện.
![]() |
| Đồng chí Hoàng Quốc Việt (đứng giữa) nói chuyện với các đại biểu tham dự Đại hội Anh hùng Chiến sĩ Thi đua toàn quốc lần 3, năm 1962. Ảnh: Tư liệu |
Chăm lo cho công nhân bằng cả trái tim
Cuối thập niên 60, đầu thập niên 70 của thế kỷ trước, nhiều vùng công nghiệp phía Bắc rơi vào tình trạng thiếu đói trầm trọng. Chứng kiến cảnh công nhân Quảng Ninh, Hải Phòng thiếu gạo, đồng chí Hoàng Quốc Việt đã rơi nước mắt.
“Bác phân công các đồng chí trong Đảng đoàn Tổng Công đoàn xuống trực tiếp giải quyết. Vấn đề nào chưa giải quyết được thì báo cáo, bác trực tiếp làm việc với Thủ tướng, với Bộ trưởng để giải quyết. Bác là người chăm lo cho công nhân bằng cả trái tim” - ông Nguyễn Túc nhớ lại.
Không chỉ vận động Nhà nước tăng cường cung ứng, đồng chí Hoàng Quốc Việt còn chỉ đạo các cấp công đoàn tổ chức phong trào tăng gia sản xuất trong nhà máy, phân xưởng. Công đoàn còn giám sát phân phối thực phẩm đến tay người tiêu dùng - một mô hình “tự quản đời sống” có tính cách mạng vào thời điểm ấy.
Nhằm phát huy vai trò đại diện, bảo vệ và tổ chức lực lượng lao động, ngày 5/11/1957, Luật Công đoàn lần đầu tiên được Quốc hội thông qua. Đây là cơ sở pháp lý để tổ chức Công đoàn mở rộng hoạt động, thúc đẩy thực hành dân chủ trong quản lý xí nghiệp, tăng cường sản xuất, đề cao kỷ luật lao động xã hội. Luật Công đoàn cũng đã góp phần củng cố vai trò của giai cấp công nhân - lực lượng lãnh đạo nòng cốt trong sự nghiệp cách mạng ở giai đoạn mới.
![]() |
| Đồng chí Hoàng Quốc Việt (thứ 2, từ trái sang) với công nhân ngành Xây dựng Hà Nội. Ảnh: Tư liệu |
Đặt nền móng cho chính sách tiền lương công bằng và tiến bộ
Ngay từ năm 1956, đồng chí Hoàng Quốc Việt đã đề xuất thành lập Ban lương Trung ương gồm ba bên: Lao động - Tài chính - Tổng Công đoàn, nghiên cứu, đề xuất hàng loạt chính sách quan trọng nhằm cải thiện đời sống công nhân, người lao động, trong đó có cải cách chế độ tiền lương, ban hành các quy định về tiền thưởng.
Chủ trương “trả lương theo sản phẩm”, “phân phối theo lao động” được đưa vào thử nghiệm và nhân rộng. Trong chiến tranh, khi chế độ tem phiếu còn phổ biến, đồng chí đã bảo vệ quyền lợi của người lao động làm việc trong điều kiện làm việc nặng nhọc, độc hại.
“Thời bao cấp, tiêu chuẩn thịt được phân phối theo cấp bậc. Nhưng với công nhân hầm lò, công nhân luyện kim - không thể chỉ tính 1 lạng hay 2 lạng được. Bác Hoàng Quốc Việt nói rõ: phải căn theo mức độ lao động nặng nhọc, chứ không thể cào bằng. Đó mới là công bằng thực sự” - ông Nguyễn Túc kể lại.
![]() |
| Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội Trường Chinh, Phó Thủ tướng Lê Thanh Nghị, Chủ tịch Tổng Công đoàn Việt Nam Hoàng Quốc Việt với các nữ Anh hùng tại Đại hội Anh hùng, Chiến sĩ thi đua lần thứ IV (năm 1966). Ảnh: TTXVN |
Những đóng góp đó đã đặt nền móng cho chính sách lương hiện đại: từ thang bậc lương, chế độ nâng bậc định kỳ, đến hệ thống thưởng thi đua và hỗ trợ khi ốm đau, thai sản… Vai trò thương lượng của công đoàn cũng được củng cố từ rất sớm.
Với quyết tâm đảm bảo người lao động được hưởng thụ tương xứng với công sức đã bỏ ra, thập niên 70 của thế kỷ trước, đồng chí Hoàng Quốc Việt cùng Ban Thư ký Tổng Công đoàn Việt Nam tích cực phối hợp với các cơ quan nhà nước xây dựng, hoàn thiện nhiều chính sách quan trọng liên quan đến lao động, tiền lương và tiền thưởng.
Trong đó, các Liên hiệp Công đoàn tỉnh, thành phố đã ký kết nghị quyết liên tịch với chính quyền địa phương để tổ chức thực hiện hiệu quả các chế độ chính sách dành cho công nhân, viên chức. Nhiều công đoàn ngành và công đoàn địa phương cũng phối hợp với cơ quan quản lý cùng hướng dẫn cơ sở triển khai cơ chế trích lợi nhuận hợp lý, thành lập quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người lao động.
Song song với chăm lo đời sống công nhân, viên chức, đồng chí luôn xác định đào tạo đội ngũ cán bộ công đoàn ngang tầm với nhiệm vụ.
“Bác luôn nhấn mạnh, muốn công đoàn là 'trường học của chủ nghĩa xã hội’ thì cán bộ công đoàn cũng phải học tập đến nơi đến chốn, hiểu kinh tế, hiểu con người, hiểu quản lý”, ông Nguyễn Túc chia sẻ.
Di sản còn mãi
Chỉ tính đến năm 1960, dưới sự lãnh đạo của đồng chí Hoàng Quốc Việt, Tổng LĐLĐ Việt Nam đã ba lần kiến nghị với Chính phủ cải tiến chế độ tiền lương cho công nhân, viên chức, trên nguyên tắc phân phối theo lao động - một nguyên lý cốt lõi trong xây dựng quan hệ sản xuất mới thời kỳ đầu công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa.
Tháng 4 năm 1960, Hội đồng Chính phủ ban hành “Nghị quyết về việc cải tiến chế độ tiền lương và tăng lương năm 1960”, trong đó tiếp tục hoàn thiện hệ thống tiền lương, bảo đảm nguyên tắc phân phối theo lao động được thể chế hóa sâu sắc hơn. Cùng với đó là việc ban hành đồng bộ các chính sách bảo hiểm xã hội và phúc lợi, áp dụng không chỉ cho công nhân, viên chức mà còn mở rộng cho lực lượng vũ trang.
![]() |
| Các đồng chí Lê Duẩn, Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt với các đại biểu dự Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ IV. Ảnh: LĐ & CĐ |
Bước sang giai đoạn 1961 - 1962, chế độ trả lương theo sản phẩm và các chính sách tiền thưởng được triển khai trên diện rộng. Hàng loạt hình thức thưởng như thưởng năng suất, thưởng tiết kiệm, thưởng sáng kiến, thưởng hoàn thành kế hoạch, thưởng lao động tiên tiến, chiến sĩ thi đua… đã phát huy tác dụng rõ rệt. Chính sách này không chỉ thúc đẩy sản xuất mà còn nâng cao thu nhập thực tế, góp phần cải thiện đáng kể đời sống công nhân.
Cùng với đó, công đoàn chủ động phối hợp với các cơ quan nhà nước xây dựng định mức lao động, đơn giá sản phẩm, nội quy trả lương theo sản phẩm, và các quy chế về khen thưởng. Công đoàn cũng tham gia vào các hội đồng xét duyệt định mức và khen thưởng sáng kiến nhằm bảo đảm tính minh bạch, công bằng trong đánh giá và phân phối...
Quan điểm xuyên suốt của đồng chí Hoàng Quốc Việt và Ban Chấp hành Tổng Công đoàn Việt Nam được thể hiện rõ: Mọi người phải phấn đấu không ngừng nâng cao năng suất lao động để từng bước nâng cao mức hưởng thụ về tiền lương. Thực hiện việc nâng cấp, nâng bậc cho công nhân, viên chức thường xuyên, kịp thời và đúng chính sách; bảo đảm người công nhân trình độ thợ ở bậc nào thì xếp ở bậc đó và hưởng lương bậc đó...
Tư tưởng ấy không chỉ phản ánh sự sâu sắc trong quản trị nguồn nhân lực thời kỳ đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội, mà còn đặt nền móng cho hệ thống chính sách tiền lương tiến bộ và nhân văn của Việt Nam trong nhiều thập niên sau.
Nhìn chung lại, trong giai đoạn chiến tranh, đồng chí Hoàng Quốc Việt xây dựng chính sách chăm lo để công nhân yên tâm sản xuất, chiến đấu. Khi đất nước chuyển mình sang cơ chế thị trường, tư tưởng “giải quyết hài hòa lợi ích” của đồng chí lại trở thành nền tảng cho các cuộc thương lượng tăng lương tối thiểu hôm nay.
Với 26 năm liên tục ở cương vị Chủ tịch Tổng Công đoàn Việt Nam và hơn mười năm là Phó Chủ tịch Liên hiệp Công đoàn Thế giới, đồng chí Hoàng Quốc Việt không chỉ xây dựng tổ chức Công đoàn vững mạnh, mà còn để lại tư tưởng cốt lõi: Công đoàn là tổ chức của người lao động, vì người lao động, do người lao động làm chủ.
“Nhiều người nhớ bác vì tầm chính trị, nhưng với tôi, bác để lại điều lớn nhất: bác là người mang trái tim công nhân, sống với công nhân, đau với công nhân và hành động vì công nhân” - ông Nguyễn Túc xúc động kết luận.
Video: ông Nguyễn Túc - Ủy viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam chia sẻ về tình cảm của đồng chí Hoàng Quốc Việt với người lao động
| Công đoàn Việt Nam: 96 năm son sắt một sứ mệnh tiên phong Vẹn nguyên tinh thần của lãnh tụ Nguyễn Đức Cảnh Công đoàn chính là “tai mắt”, là “cánh tay nối dài” của Mặt trận |
Đọc nhiều
Tin mới hơn
Lý luận gắn với thực tiễn theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Tăng cường khối đoàn kết xây dựng Đảng vững mạnh theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
Phát huy nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách trong công tác xây dựng Đảng
Tin tức khác
Những giá trị lý luận về phong trào cách mạng và Đảng Cộng sản ở Việt Nam của đồng chí Nguyễn Đức Cảnh
Vai trò của đồng chí Nguyễn Đức Cảnh trong việc sáng lập và lãnh đạo Tổng Công hội Đỏ Bắc Kỳ
Đồng chí Nguyễn Đức Cảnh và những cống hiến lịch sử thúc đẩy Cách mạng Việt Nam
Vẹn nguyên tinh thần của lãnh tụ Nguyễn Đức Cảnh
Công đoàn Việt Nam: 96 năm son sắt một sứ mệnh tiên phong




