Ngay trang bìa của Quốc bảo[1] “Đường Kách Mệnh” (1927), Hồ Chí Minh tâm đắc trích câu nói của Lênin: “Không có lý luận cách mệnh, thì không có cách mệnh vận động... Chỉ có theo lý luận cách mệnh tiền phong, đảng cách mệnh mới làm nổi trách nhiệm cách mệnh tiền phong”[2]. Không chỉ là người đầu tiên của nước ta quan tâm tới lý luận chính trị, Hồ Chí Minh còn là người kiên trì, bền bỉ thực hành việc giáo dục lý luận chính trị cho các thế hệ người Việt Nam yêu nước. Người để lại cho cách mạng Việt Nam một di sản to lớn về giáo dục lý luận chính trị. Di sản đó, giúp chúng ta thấy được vai trò, vị trí, mục đích, nội dung, phương pháp... giáo dục lý luận chính trị, đồng thời, thấu tỏ phương châm giáo dục lý luận chính trị theo quan điểm Hồ Chí Minh.
Khi lựa chọn được con đường cách mạng vô sản, Hồ Chí Minh quyết định “trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập”[3]. Từ những lớp huấn luyện chính trị đầu tiên ở Quảng Châu, các lớp huấn luyện cán bộ Việt Minh ở biên giới Việt - Trung trước cách mạng, cho đến các lớp học tập, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ sau này, Hồ Chí Minh luôn là hiện thân của một người thầy mẫu mực, kiên trì, cần mẫn vun đắp cho sự nghiệp “trồng người” và chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau. Qua đó, Người đào tạo nên thế hệ cán bộ - chiến sĩ trung thành, sáng suốt, tận tụy với nhân dân, với sự nhiệp cách mạng. Và chính họ cùng với Người đã thức tỉnh nhân dân đấu tranh, đưa nhân ta từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ, đưa dân tộc Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới - “kỷ nguyên độc lập tự do - Thời đại Hồ Chí Minh”[4].
![]() |
| Chủ tịch Hồ Chí Minh khai mạc Lớp học lý luận khóa I, Trường Nguyễn Ái Quốc (nay là Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh), ngày 07/9/1957. Ảnh: ST |
Trong sự nghiệp xây dựng nền giáo dục nói chung, giáo dục lý luận chính trị nói riêng, Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng phương châm giáo dục thiết thực, cụ thể và khoa học. Ở tác phẩm Sửa đổi lối làm việc (1947), Hồ Chí Minh nêu: “Lý luận là đem thực tế trong lịch sử, trong kinh nghiệm, trong các cuộc tranh đấu, xem xét, so sánh thật kỹ lưỡng rõ ràng, làm thành kết luận. Rồi lại đem nó chứng minh với thực tế”[5]. Lý luận mà Hồ Chí Minh quan tâm, trước hết là lý luận trong công tác của Đảng, đó là lý luận chính trị, lý luận cách mạng. Lý luận về con đường giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; lý luận về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; lý luận về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân; lý luận về phát triển kinh tế và văn hoá, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; lý luận về đạo đức cách mạng; lý luận về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; lý luận về xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh, v.v..
Đó là những lý luận liên quan trực tiếp tới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước, việc củng cố nền tảng tư tưởng, lập trường giai cấp công nhân và nhân sinh quan cách mạng trong toàn Đảng. Người nói: “Học tập chủ nghĩa, dùi mài tư tưởng, nâng cao lý luận, chỉnh đốn tổ chức - là những việc cần kíp của Đảng”[6]; “Chủ nghĩa xã hội chỉ có thể xây dựng được với sự giác ngộ đầy đủ và lao động sáng tạo của hàng chục triệu người. Muốn thế phải nâng cao trình độ lý luận chung của Đảng, phải tổ chức học tập lý luận trong Đảng, trước hết là trong những cán bộ cốt cán của Đảng”[7].
Cách mạng tháng Tám thành công, ngày 2/9/1945, Người đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước Dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Sau đó đúng một ngày, tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ (3/9/1945), giữa muôn vàn khó khăn của buổi đầu mới giành được độc lập, giữa bộn bề biết bao lo toan những công việc hệ trọng, giữa lúc kinh tế kiệt quệ, thiên tai, nạn đói hoành hành, thù trong giặc ngoài ra sức chống phá nhằm tiêu diệt thành quả của cách mạng, Hồ Chí Minh đã kêu gọi toàn dân đoàn kết chống “giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm”. Người ban hành sắc lệnh thành lập Nha bình dân học vụ để thực hiện chống mù chữ. Người khẳng định: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”[8] và “dốt” cũng là một loại “giặc” - đồng minh của giặc ngoại xâm.
Theo Hồ Chí Minh: “Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự Đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại”[9]. Vì vậy, trong công tác huấn luyện cán bộ của Đảng, Người yêu cầu phải huấn luyện về lý luận để họ tự mình tìm ra phương hướng chính trị, có thể làm những công việc thực tế, có thể trở thành người tổ chức và lãnh đạo. Thế mới là lý luận thiết thực, có ích: “Giáo dục phải phục vụ đường lối chính trị của Đảng và Chính phủ, gắn liền với sản xuất và đời sống của nhân dân”[10]. Người phê phán: “Học chủ nghĩa Mác - Lênin không phải nhắc như con vẹt “Vô sản thế giới liên hiệp lại” mà phải thống nhất chủ nghĩa Mác - Lênin với thực tiễn cách mạng Việt Nam”[11].
Người căn dặn: “Chúng ta phải nâng cao sự tu dưỡng về chủ nghĩa Mác-Lênin để dùng lập trường, quan điểm, phương pháp chủ nghĩa Mác-Lênin mà tổng kết những kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn những đặc điểm của nước ta. Có như thế, chúng ta mới có thể dần dần hiểu được quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, định ra được những đường lối, phương châm, bước đi cụ thể của cách mạng xã hội chủ nghĩa thích hợp với tình hình nước ta”[12]. Người chỉ thị phải: “...đi sâu vào việc điều tra nghiên cứu, tổng kết kinh nghiệm. Mỗi chủ trương công tác đều phải căn cứ vào tình hình thực tế, vào kinh nghiệm rất phong phú của quần chúng, của cán bộ, của địa phương”[13]. Do đó, nhiệm vụ của “Những người cộng sản các nước phải cụ thể hóa chủ nghĩa Mác-Lênin cho thích hợp với điều kiện hoàn cảnh từng lúc và từng nơi”[14].
Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với thực tiễn. Người yêu cầu: “Phương châm, phương pháp học tập là lý luận liên hệ với thực tế. Học xong, về xí nghiệp, về hợp tác xã, về cơ quan... Phải biến những điều đã học thành hành động cách mạng thực tế. Học phải đi đôi với hành, chứ không phải học để nói suông”[15].
Hồ Chí Minh nêu vai trò của lý luận đối với thực tiễn: “Lý luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong công việc thực tế. Không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi”[16]; “Làm mà không có lý luận thì không khác gì đi mò trong đêm tối, vừa chậm chạp vừa hay vấp váp. Có lý luận thì mới hiểu được mọi việc trong xã hội, trong phong trào để chủ trương cho đúng, làm cho đúng”[17].v.v...
Tuy nhiên, do nhận thức rõ tính gián tiếp, tính trừu tượng cao trong phản ánh hiện thực, do sự chi phối của hệ tư tưởng nhất định, thái độ không khoa học nên lý luận có nguy cơ xa rời cuộc sống, trở nên giáo điều, ảo tưởng. Vì vậy, bên cạnh việc nhấn mạnh vai trò của lý luận, Hồ Chí Minh đồng thời, nhắc nhở chúng ta phải luôn ghi nhớ: lý luận là “kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta” trong thực tế, trong hành động cách mạng, nhưng “lý luận không phải là cái gì cứng nhắc, nó đầy tính sáng tạo”[18]. Lý luận luôn cần sự bổ sung những tổng kết mới từ thực tiễn sinh động và thực tiễn là thước đo chân lý của mọi lý luận. Tác dụng và sức sống của lý luận phụ thuộc vào khả năng của chính nó trong việc khái quát bản chất của hiện thực khách quan từ vô số các hiện tượng cụ thể; phụ thuộc vào chỗ nó tạo ra sự tiến bộ của lịch sử, sự phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, và tựu trung lại là để tạo ra cuộc sống tốt đẹp hơn cho con người.
Hồ Chí Minh phân tích rõ, trong thực tiễn cách mạng, có những cán bộ, đảng viên “làm được việc”, “có kinh nghiệm” và theo Người: “Cố nhiên, những anh em đó rất quý cho Đảng. Nhưng họ lại mắc phải cái bệnh khinh lý luận. Họ quên rằng: nếu họ đã có kinh nghiệm mà lại biết thêm lý luận thì công việc tốt hơn nhiều. Họ quên rằng: kinh nghiệm của họ tuy tốt, nhưng cũng chẳng qua là từng bộ phận mà thôi, chỉ thiên về một mặt mà thôi”[19]. “Những anh em đó, cần phải nghiên cứu thêm lý luận, mới thành người cán bộ hoàn toàn”[20]. Như vậy, lý luận được khái quát từ những kinh nghiệm thực tiễn, nhưng lý luận ở trình độ cao hơn về chất so với kinh nghiệm. Lý luận mang tính trừu tượng và khái quát cao, nhờ đó, đem đến sự hiểu biết sâu sắc về bản chất, tính quy luật của các sự vật, hiện tượng khách quan.
Người cảnh báo, do kém về lý luận, khinh lý luận, hoặc lý luận suông nên nhiều cán bộ, đảng viên của ta mắc phải bệnh chủ quan. Cũng do kém lý luận mà cán bộ “gặp mọi việc không biết xem xét cho rõ, cân nhắc cho đúng, xử trí cho khéo. Không biết nhận rõ điều kiện hoàn cảnh khách quan, ý mình nghĩ thế nào làm thế ấy. Kết quả thường thất bại”[21].
Người nêu rõ mục đích của học tập lý luận: “Lý luận cốt để áp dụng vào công việc thực tế. Lý luận mà không áp dụng vào thực tế là lý luận suông. Dù xem được hàng ngàn hàng vạn quyển lý luận, nếu không biết đem ra thực hành, thì khác nào một cái hòm đựng sách”[22]. Bởi vậy, “chỉ học thuộc lòng, để đem lòe thiên hạ thì lý luận ấy cũng vô ích” và những người “xem nhiều sách để mà lòe, để làm ra ta đây” đó không phải là những người “biết lý luận”, mà càng “cần phải ra sức thực hành mới thành người biết lý luận”[23]. Người yêu cầu, phải chữa các bệnh “kém lý luận, khinh lý luận và lý luận suông”. Bởi lẽ, sự yếu kém, coi khinh lý luận, và lý luận suông là “mảnh đất màu mỡ” cho bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa, bệnh chủ quan, bệnh giáo điều nảy sinh và phát triển.
Người nhấn mạnh: “...cần phải nghiên cứu kinh nghiệm cũ để giúp cho thực hành mới, lại đem thực hành mới để phát triển kinh nghiệm cũ, làm cho nó đầy đủ, dồi dào thêm”[24]. Đây chính là quá trình tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, đúc rút kinh nghiệm để bổ sung, hoàn thiện và phát triển thành lý luận. Đồng thời, thực tiễn mới lại được chỉ đạo, soi đường, dẫn dắt bởi lý luận mới vừa được rút ra từ tổng kết thực tiễn: “THỰC HÀNH SINH RA HIỂU BIẾT, HIỂU BIẾT TIẾN LÊN LÝ LUẬN. LÝ LUẬN LÃNH ĐẠO THỰC HÀNH”[25]. Đây chính là mối quan hệ biện chứng, sự phối kết hợp nhuần nhuyễn, thuần thục, thống nhất giữa lý luận và thực tiễn từ trong tư tưởng đến hoạt động cách mạng thực tiễn phong phú của Hồ Chí Minh.
Với phương châm giáo dục nêu trên, về dạy và học lý luận chính trị, Hồ Chí Minh yêu cầu: “Phải lấy tự học làm cốt”[26], “phải nâng cao và hướng dẫn việc tự học”; “Học ở trường, học ở sách vở, học lẫn nhau và học nhân dân, không học nhân dân là một thiếu sót rất lớn[27]”. Nghĩa là, chúng ta phải có ý thức học tập mọi lúc, mọi nơi, nhất là qua những thành công và thất bại trong công tác để rút ra những bài học cho bản thân mình.
Trong lý lịch tự khai tại Đảng Cộng sản Pháp cũng như tại một số đại hội, Hội nghị của Quốc tế Cộng sản, Hồ Chí Minh trung thực, khiêm nhường ghi ở phần trình độ học vấn là: Tự học. Tâm sự với các đảng viên hoạt động lâu năm (ngày 09/12/1961), Chủ tịch Hồ Chí Minh chia sẻ: “Tôi năm nay 71 tuổi, ngày nào cũng phải học. Việc lớn, việc nhỏ, tôi phải tham gia. Công việc cứ tiến mãi. Không học thì không theo kịp, công việc nó sẽ gạt mình lại phía sau”[28]. Và nói thêm điều này, để chúng ta thấy được tầm vĩ đại của Người: Năm 1996, Triết lý giáo dục cho thế kỷ XXI của UNESCO mới đề ra khẩu hiệu “Học suốt đời” (Life long learning). Như vậy, Hồ Chí Minh đã đưa ra quan điểm “học suốt đời” sớm hơn UNESCO hàng mấy chục năm[29].
Cuộc đời và sự nghiệp vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương sáng ngời về việc quán triệt phương châm thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Một trong những biểu hiện sinh động ấy là trong khoảng 10 năm từ 1955 - 1965, Hồ Chí Minh thực hiện 700 lượt thăm[30], tiếp xúc với cán bộ, các cụ phụ lão, bộ đội, công nhân, nông dân, giáo viên, bác sĩ, các cháu thanh, thiếu niên nhi đồng, thanh niên xung phong, các hợp tác xã, trường học,.v.v.. Như vậy, mỗi năm có tới khoảng 70 lần, Người xuống cơ sở, gặp gỡ, tiếp xúc, làm việc và động viên quần chúng nhân dân. Điều này cho thấy, Người sâu sát thực tế cơ sở và gắn bó với quần chúng như thế nào!
Phương châm thống nhất lý luận và thực tiễn trong giáo dục chính trị của Hồ Chí Minh là biện pháp cơ bản, hữu hiệu để ngăn ngừa, khắc phục bệnh kinh nghiệm, bệnh giáo điều, bệnh chủ quan và có ý nghĩa hết sức to lớn trong tình hình hiện nay, khi mà chúng ta đang tìm lời giải đáp cho nhiều vấn đề mà thực tiễn đổi mới đất nước đặt ra.
Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) nêu lên các phương hướng cơ bản để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trong quá trình thực hiện các phương hướng cơ bản đó, công tác lý luận lẫn thực tiễn đổi mới phải đặc biệt chú trọng nắm vững và giải quyết các mối 8 quan hệ lớn: Mối quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.
Tại Đại hội XI (2011), Đảng ta xác định: “Đảng phải kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, làm sáng tỏ một số vấn đề về đảng cầm quyền; về chủ nghĩa xã hội, con đường đi lên CNXH ở nước ta; nâng cao tính chiến đấu, tính thuyết phục, hiệu quả công tác tư tưởng, đổi mới công tác giáo dục lý luận trong Đảng, nhất là trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo các cấp”[31].
![]() |
| Tạp chí Cộng sản tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh gắn với phát huy sức mạnh, quyền làm chủ của nhân dân - Giá trị lý luận và định hướng vận dụng thực tiễn”. |
Đến Đại hội XII, nhìn lại 30 năm đổi mới (1986 - 2016), về hạn chế, khuyết điểm của công tác tổng kết thực tiễn, công tác nghiên cứu lý luận, Đảng ta nêu rõ: “Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận còn bất cập, chưa làm rõ được một số vấn đề đặt ra trong quá trình đổi mới định hướng trong thực tiễn, cung cấp cơ sở khoa học cho hoạch định đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội còn một số vấn đề cần phải qua tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận để tiếp tục làm rõ”[32]. Và bài học lớn thứ 3 (trong 5 bài học) được Đảng ta đúc rút qua 30 năm tiến hành đổi mới là: “Đổi mới phải toàn diện, đồng bộ, có bước đi phù hợp; tôn trọng quy luật khách quan, xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn, coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, tập trung giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề do thực tiễn đặt ra”[33].
Dự thảo các Văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng đúc rút năm bài học kinh nghiệm mang tấm lý luận về đường đổi mới, bao gồm: “Bốn là, chủ động nghiên cứu, nắm bắt, dự báo sát, sớm, đúng tình hình; có tư duy chiến lược, đổi mới sáng tạo; có đối sách phù hợp, kịp thời, linh hoạt, hiệu quả”[34] và bài học kinh nghiệm: “Năm là, chủ động ngăn ngừa, phòng, chống bệnh chủ quan duy ý chí, giáo điều, cơ hội, bảo thủ. Giải quyết tốt quan hệ giữa kế thừa, bổ sung và phát triển; kết hợp nhuần nhuyễn giữa tổng kết thực tiễn với nghiên cứu lý luận, với hoạch định chính sách và tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước”[35]. “Từ thực tiễn của công cuộc đổi mới, Đảng ta đã từng bước hình thành lý luận về đường lối đổi mới ở Việt Nam phù hợp với các quy luật khách quan, xuất phát từ thực tiễn đất nước cà xu thế của thời đại”[36].
Yêu cầu của sự nghiệp đổi mới cùng với những biến đổi ngày càng phức tạp, nhanh chóng, khó lường... của khu vực và tình hình thế giới, tiếp tục đặt ra những vấn đề cho công tác lý luận cần làm rõ, cần giải quyết. Vì vậy, việc nghiên cứu, học tập, nghiên cứu và quán quan điểm, phương châm của Hồ Chí Minh về giáo dục lý luận chính trị “lý luận gắn với thực tiễn là “kim chỉ nam” đảm bảo cho công tác giáo dục lý luận chính trị luôn đúng hướng, phù hợp quy luật, bắt kịp với sự biến đổi, phát triển của tình hình thế giới và thực tiễn đất nước trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam.
[1] Theo Quyết định số 1426/QD-TTg về việc công nhận (đợt I) 30 hiện vật, nhóm hiện vật là Bảo vật Quốc gia. Trong số 30 Bảo vật Quốc gia được công nhận đợt đầu, có 5 tác phẩm tiêu biểu của Hồ Chí Minh.Cuốn Đường Kách Mệnh thuộc 1 trong 5 tác phẩm đó.
[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, Tập 2, tr.279.
[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, Tập 1, tr.209.
[4] PGS, NGND Lê Mậu Hán: Cách mạng Tháng Tám 1945 một điển hình thành công về khởi nghĩa dân tộc, Tạp chí Lịch sử Đảng, số (273) tháng 8/2013.
[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, Tập 5, tr.273.
[6] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, Tập 7, tr.33.
[7] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, Tập 11, tr.93.
[8] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, Tập 4, tr.7.
[9] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, Tập 6, tr.208.
[10] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, Tập 12, tr.647.
[11] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, Tập 6, tr.368.
[12] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, Tập 11, tr.92.
[13] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, Tập 8, tr.448.
[14] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, Tập 11, tr.95.
[15] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, Tập 15, tr.113.
[16] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, Tập 5, tr.273.
[17] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, Tập 6, tr.357.
[18] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, Tập 11, tr.95.
[19] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, Tập 5, tr.274.
[20] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, Tập 5, tr.274.
[21] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, Tập 5, tr.274.
[22] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, Tập 5, tr.274.
[23] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, Tập 5, tr.274.
[24] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, Tập 5, tr.511.
[25] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, Tập 7, tr.120.
[26] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, Tập 5, tr.312.
[27] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, Tập 6, tr361.
[28] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, Tập 13, tr273.
[29] Gs, Song Thành: “Triết lý giáo dục Hồ Chí Minh”, Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị điện tử số 6/2014.
[30] Theo TS. Phạm Tất Thắng (Chủ biên): Đổi mới công tác tư tưởng, lý luận phục vụ sự nghiệp xây dụng và bảo vệ Tổ quốc, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2010, tr.63.
[31] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, H, 2011, tr.57.
[32] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, H, 2016, tr.67.
[33] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr.69.
[34] Đảng Cộng sản Việt Nam: “Dự thảo các Văn kiện trình Đại hội Đại hội XIV của Đảng”, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2024, tr.15.
[35] Đảng Cộng sản Việt Nam: “Dự thảo các Văn kiện trình Đại hội Đại hội XIV của Đảng”, Sđd, tr.15.
[36] Đảng Cộng sản Việt Nam: “Dự thảo các Văn kiện trình Đại hội Đại hội XIV của Đảng”, Sđd, tr.15.
Đọc nhiều
Tin mới hơn
Ban Công đoàn Quốc phòng chi hơn 1,6 tỷ đồng hỗ trợ đoàn viên bị bão lũ
Kết quả chương trình "Bữa cơm Công đoàn" năm 2025
Hơn 2 triệu đoàn viên cùng chung mâm “cơm Công đoàn”
Tin tức khác
Bí quyết đưa luật tới từng phân xưởng của Công đoàn tỉnh Thanh Hóa
Khi giờ nghỉ trưa của công nhân trở thành "giờ học luật"
[Trực tiếp]: Trao giải cuộc thi tìm hiểu Luật Công đoàn, Luật Bảo hiểm Xã hội 2024
Tổng LĐLĐ Việt Nam hỗ trợ 1 tỉ đồng giúp người lao động ở Huế khắc phục bão lũ
Trực tiếp: Lễ công bố định hướng phát triển Viện Chiến lược và Chính sách Mặt trận

