Mô hình phù hợp đối với khu vực doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ
Nghiên cứu

Mô hình phù hợp đối với khu vực doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ

TS. Phạm Thị Thu Lan - Viện Công nhân và Công đoàn
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tính đến thời điểm 31/12/2018, trong số 610.637 doanh nghiệp đang hoạt động có kết quả sản xuất kinh doanh trên cả nước, có tới 98,1% là doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ (từ 100 lao động trở xuống). Riêng doanh nghiệp quy mô siêu nhỏ (từ 10 lao động trở xuống) có 382.444 doanh nghiệp, chiếm 62,6% số doanh nghiệp cả nước.
Mô hình phù hợp đối với khu vực doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ
Liên đoàn Lao động TP. Bảo Lộc (Lâm Đồng) trao quyết định thành lập công đoàn cơ sở Công ty cổ phần Công nghệ xanh Lộc Châu (Lâm Đồng).

Mô hình phù hợp

Hiện đa số NLĐ ở các doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ, dưới 25 lao động chưa tham gia công đoàn. Nhu cầu của NLĐ được tham gia công đoàn, được công đoàn đại diện và bảo vệ ở các doanh nghiệp này là nhu cầu chính đáng. Trong thực tế, NLĐ làm việc trong các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, dưới 25 lao động thường có việc làm bấp bênh và không bảo đảm, ít được thanh tra lao động, thường nảy sinh rất nhiều vấn đề, nhất là về tuân thủ các quy định của Nhà nước liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng như: tiền lương, điều kiện làm việc, ATVSLĐ, bảo đảm việc làm, BHXH, BHYT...

Các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ có độ ổn định không cao, việc thành lập và giải thể diễn ra dễ dàng. Vì vậy việc thành lập CĐCS theo mô hình trong phạm vi doanh nghiệp là không bền vững vì NLĐ sẽ tự nhiên bị ra khỏi công đoàn khi doanh nghiệp giải thể. Công đoàn sẽ mất đoàn viên sau khi CĐCS trong doanh nghiệp giải thể. Đó là chưa kể tới thực trạng nhiều doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ đăng ký ảo, không tồn tại; thậm chí có thể hai, ba doanh nghiệp cùng đăng ký hoạt động, nhưng trên thực tế cũng vẫn là những NLĐ đó. Vì vậy, trong khu vực các doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ, dưới 25 lao động thì mô hình CĐCS phù hợp là CĐCS ghép.

Thực trạng mô hình CĐCS ghép hiện nay

Mô hình CĐCS ghép được bắt đầu được thực hiện từ năm 2014, thông qua Hướng dẫn số 238/HD-TLĐ ngày 04/3/2014 của Tổng LĐLĐ Việt Nam, nhưng thuật ngữ “CĐCS ghép” lần đầu tiên được sử dụng trong Hướng dẫn số 703/HD-TLĐ ngày 06/5/2009 của Tổng LĐLĐ Việt Nam hướng dẫn thi hành Điều lệ Công đoàn Việt Nam, theo đó, Điểm b Điều 10 quy định: “Các doanh nghiệp có đủ điều kiện về đoàn viên, có tư cách pháp nhân nhưng có chung chủ sở hữu hoặc cùng ngành nghề, lĩnh vực hoạt động trên địa bàn nếu tự nguyện liên kết thì thành lập CĐCS có cơ cấu CĐCS thành viên”.

Mô hình phù hợp đối với khu vực doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ
Cán bộ Liên đoàn Lao động TP. Cần Thơ phát tờ rơi tuyên truyền về trật tự an toàn giao thông cho người lao độngtại Khu Công nghiệp - Chế xuất Trà Nóc, quận Bình Thủy.

Hiện tại chỉ còn có 9 CĐCS ghép đang hoạt động ở các đơn vị trong lĩnh vực doanh nghiệp cơ khí, trường mầm non, doanh nghiệp điện tử, doanh nghiệp thương mại, các văn phòng đại diện và một số doanh nghiệp trong các KCN. Các CĐCS ghép này được thành lập chính thức thông qua quyết định của công đoàn cấp trên cơ sở. Đặc điểm của CĐCS ghép là số lượng đoàn viên ít, nhiều nhất cũng chỉ lên tới vài chục đoàn viên, dẫn tới nguồn kinh phí đóng góp từ đoàn viên quá ít. Do hạn chế về kinh phí nên việc tổ chức các hoạt động công đoàn theo cách truyền thống không hiệu quả.

Hơn nữa, ở các doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ, dưới 25 lao động, những nội dung hoạt động công đoàn mang tính chất xã hội và phong trào như đã nêu ở trên không phải là hoạt động sát sườn với NLĐ, vì các hoạt động này không gắn với quyền lợi trực tiếp của NLĐ như: không gắn với việc làm và thu nhập, không đi vào thực chất những vấn đề bức xúc, cấp bách mà NLĐ gặp phải hằng ngày trong công việc. Vì vậy, sau một thời gian hoạt động phong trào ở CĐCS ghép, NLĐ thấy công đoàn không thiết thực, thậm chí nhiều người thấy công đoàn không liên quan đến họ. Từ đó, vai trò công đoàn dần dần mờ nhạt, dẫn đến CĐCS ghép tự tan hoặc chỉ tồn tại trên danh nghĩa.

Có thể thấy, việc thành lập CĐCS ghép cho đến nay chỉ đạt được mục tiêu thành lập được CĐCS ghép nhưng hầu như các CĐCS ghép đều “bế tắc” trong hoạt động sau khi thành lập. Trong thực tiễn, với số lượng đoàn viên ít, kinh phí ít, nội dung hoạt động thiếu trọng tâm và chưa thiết thực với NLĐ, nên các CĐCS ghép gần như không hoạt động gì và một số CĐCS ghép đã “tự giải thể”. Vì vậy, rất cần điều chỉnh mô hình thành lập và hoạt động của CĐCS ghép theo phương thức mới để tập hợp, đại diện và bảo vệ NLĐ trong khu vực này, vì nếu không thay đổi, Công đoàn Việt Nam sẽ rất khó để vươn ra khu vực này, để lại khoảng trống cho sự xuất hiện của các tổ chức đại diện khác của NLĐ trong thời gian tới.

Mô hình phù hợp đối với khu vực doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ
Trao quyết định kết nạp đoàn viên cho công nhân lao động của Công ty TNHH Tân Mahang Việt Nam (Quảng Ngãi).

Để CĐCS ghép hoạt động hiệu quả

Rút kinh nghiệm từ thực tiễn hoạt động của CĐCS ghép, để CĐCS ghép hoạt động hiệu quả, việc thành lập và hoạt động CĐCS ghép cần đảm bảo các nguyên tắc sau:

Thứ nhất, CĐCS ghép chỉ thuần túy bao gồm đoàn viên là những NLĐ có cùng những vấn đề như nhau tại nơi làm việc liên quan tới việc làm của họ trong mối quan hệ với NSDLĐ, nghĩa là những NLĐ có cùng nghề như nhau. Đây là nguồn gốc của công đoàn ngành nghề. “Cái gốc” của công đoàn là NLĐ gặp phải những vấn đề như nhau tại nơi làm việc hợp lại với nhau và cùng nhau thành lập tổ chức để có sức mạnh và vị thế pháp lý nhằm “tự cứu” chính mình.

Thứ hai, hoạt động trọng tâm và then chốt của CĐCS ghép là thực hiện đối thoại và thương lượng tập thể về các vấn đề nảy sinh tại nơi làm việc với NSDLĐ nhằm giải quyết vấn đề và từng bước đưa đến sự cải thiện điều kiện làm việc; gạt sang một bên các vấn đề khác như thăm, hỏi, hiếu, hỉ, văn hóa, thể thao... trong nội bộ tổ chức Công đoàn. Mục tiêu hoạt động là kiên trì thuyết phục, tạo sự đồng thuận của những NSDLĐ để đi đến đối thoại và thương lượng, ký kết thỏa ước tập thể.

Thứ ba, thành lập CĐCS ghép và xây dựng năng lực thực hiện chiến lược hành động của CĐCS ghép phải là hai bước đi liền với nhau. Mục tiêu của thí điểm là tập thể NLĐ phải có một chiến lược hành động thông qua đối thoại và thương lượng tập thể sẵn sàng trước khi thành lập CĐCS ghép. Việc thành lập CĐCS ghép chỉ là bước thủ tục để đưa tới hình thành một tổ chức có tư cách pháp nhân nhằm thực hiện chiến lược đề ra. Điều này có nghĩa, nếu tập thể NLĐ chưa sẵn sàng và chưa có khả năng thực hiện đối thoại và thương lượng tập thể về các vấn đề của họ tại nơi làm việc thì chưa thành lập CĐCS ghép.

Thứ tư, quá trình vận động thành lập CĐCS ghép chính là quá trình giáo dục tập thể NLĐ để họ hiểu về công đoàn, hiểu về vai trò của NLĐ trong công đoàn, biết cách giao tiếp, trao đổi với nhau để cùng nhau xây dựng chiến lược hành động và thực hiện chiến lược. Sau khi hiểu rõ và sẵn sàng hành động, tập thể NLĐ làm các thủ tục thành lập CĐCS ghép và bầu ra người đại diện cho mình để bắt đầu thực hiện chiến lược. Nguyên tắc hoạt động của CĐCS ghép là “của NLĐ, do NLĐ và vì NLĐ”. Điều này có nghĩa là nếu NLĐ chưa hiểu và chưa sẵn sàng cho chiến lược hành động của mình thì chưa thành lập CĐCS ghép. Vai trò của công đoàn cấp trên là giúp đỡ và hỗ trợ quá trình thành lập CĐCS ghép bằng việc xây dựng năng lực cho tập thể NLĐ.

Mô hình phù hợp đối với khu vực doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ

Doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ thường có tính chất gia đình việc thành lập CĐCS ở loại hình doanh nghiệp này gặp rất nhiều khó khăn.

Thứ năm, cách tiếp cận của phương pháp mới là tiếp cận NLĐ và xây dựng năng lực để NLĐ thành lập CĐCS ghép. Công đoàn cấp trên thực hiện thí điểm sẽ tiếp cận NLĐ trong cộng đồng và triển khai các hoạt động với NLĐ ngoài doanh nghiệp. Việc tiếp cận NSDLĐ chỉ được thực hiện bởi chính NLĐ thông qua CĐCS ghép của họ để thực hiện đối thoại và thương lượng tập thể về các vấn đề tại nơi làm việc.

Kết luận

Việt Nam đã tham gia Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA) có cam kết về lao động; đã phê chuẩn Công ước 98 của Tổ chức Lao động Quốc tế về thương lượng tập thể, tiến tới phê chuẩn Công ước 87 về tự do hiệp hội theo cam kết; vì vậy, trong tương lai sẽ xuất hiện các tổ chức đại diện khác của NLĐ và cạnh tranh trực tiếp với tổ chức Công đoàn Việt Nam trong việc đại diện và bảo vệ NLĐ. Bộ luật Lao động (sửa đổi, bổ sung) năm 2019 đã cho phép NLĐ có quyền thành lập các tổ chức đại diện khác ngoài hệ thống Công đoàn Việt Nam. Điều này đòi hỏi công đoàn các cấp phải tập hợp NLĐ ở các doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ, dưới 25 lao động tham gia công đoàn và thực hiện hiệu quả chức năng đại diện, chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của NLĐ ở khu vực này. Thực hiện mô hình CĐCS ghép theo năm nguyên tắc vận hành của CĐCS ghép nói trên sẽ giúp cho Công đoàn Việt Nam tập hợp được đoàn viên và xây dựng sức mạnh của tổ chức Công đoàn để ứng phó với các thách thức trong tình hình mới.

Vươn lên nhờ Vươn lên nhờ "vòng tay Công đoàn"

Công đoàn Trường Mầm non Chiềng Hắc đã truyền cảm hứng, niềm say mê và ngọn lửa nhiệt huyết cống hiến cho mỗi giáo viên ...

“Ô tô siêu thị 0 đồng” hỗ trợ công nhân khu công nghiệp “Ô tô siêu thị 0 đồng” hỗ trợ công nhân khu công nghiệp

Công đoàn các Khu công nghiệp và Chế xuất Hà Nội vừa trao 2.000 "Túi An sinh Công đoàn" dành cho công nhân, lao động ...

"Nhờ công đoàn, giấc mơ an cư của tôi đã thành sự thật"

“Tôi từng có một giấc mơ rất kỳ lạ, ở đó, tôi thấy mình và con được sống trong một ngôi nhà khang trang, ...

Tin mới hơn

Lý luận gắn với thực tiễn theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Lý luận gắn với thực tiễn theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh luôn rất coi trọng lý luận, việc học tập lý luận của cán bộ, đảng viên và toàn thể nhân dân.
Tăng cường khối đoàn kết xây dựng Đảng vững mạnh theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh

Tăng cường khối đoàn kết xây dựng Đảng vững mạnh theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh

Đoàn kết, gắn bó chặt chẽ nhằm phát huy sức mạnh của cộng đồng để chống thiên tai và ngoại xâm là truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam. Đến Hồ Chí Minh thì “Đại đoàn kết được xây dựng trên cả một lý luận chứ không còn đơn thuần là tình cảm tự nhiên của người trong một nước phải thương nhau cùng” , nghĩa là, trong tư duy lý luận của Hồ Chí Minh, tư tưởng đại đoàn kết được hình thành và phát triển trên một nền tảng lý luận khoa học và thực tiễn hết sức phong phú, sâu sắc.
Phát huy nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách trong công tác xây dựng Đảng

Phát huy nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách trong công tác xây dựng Đảng

Học tập và vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, từ khi thành lập Đảng đến nay Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng nguyên tắc tập trung dân chủ, coi đó là nguyên tắc số một trong xây dựng Đảng. Trong điều kiện Đảng cầm quyền ở nước ta, biểu hiện cụ thể của nguyên tắc đó chính là nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Đây vừa là một nguyên tắc trong hoạt động lãnh đạo của Đảng, vừa là một nội dung biểu hiện của nguyên tắc tập trung dân chủ. Nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách góp phần xây dựng Đảng vững mạnh trên cả ba mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức.

Tin tức khác

Những giá trị lý luận về phong trào cách mạng và Đảng Cộng sản ở Việt Nam của đồng chí Nguyễn Đức Cảnh

Những giá trị lý luận về phong trào cách mạng và Đảng Cộng sản ở Việt Nam của đồng chí Nguyễn Đức Cảnh

Nguyễn Đức Cảnh sinh ra và lớn lên trong một gia đình nhà nho nghèo, được người cha dạy chữ, được tiếp thu truyền thống yêu nước của quê hương, gia đình, dòng họ; lớn lên trong bối cảnh đất nước lầm than, bị ngoại bang đô hộ, lại sớm được đọc và chịu ảnh hưởng của một số tác phẩm, bài viết của Nguyễn Ái Quốc, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh - những nhà yêu nước Việt Nam.
Vai trò của đồng chí Nguyễn Đức Cảnh trong việc sáng lập và lãnh đạo Tổng Công hội Đỏ Bắc Kỳ

Vai trò của đồng chí Nguyễn Đức Cảnh trong việc sáng lập và lãnh đạo Tổng Công hội Đỏ Bắc Kỳ

Tổng Công hội Đỏ Bắc Kỳ, tổ chức tiền thân của Tổng LĐLĐ Việt Nam ra đời ngày 28/7/1929 là kết quả tất yếu của phong trào công nhân, là thắng lợi của đường lối công vận của Đảng ta và đáp ứng yêu cầu bức thiết của phong trào công nhân đang phát triển mạnh mẽ, đánh dấu sự trưởng thành về tổ chức của giai cấp công nhân Việt Nam.
Đồng chí Nguyễn Đức Cảnh và những cống hiến lịch sử thúc đẩy Cách mạng Việt Nam

Đồng chí Nguyễn Đức Cảnh và những cống hiến lịch sử thúc đẩy Cách mạng Việt Nam

Trở về Hà Nội từ Quảng Châu (Trung Quốc) sau khi đã nghiên cứu, tìm hiểu và gia nhập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, Nguyễn Đức Cảnh chính thức ly khai khỏi Nam Đồng Thư xã (lúc này đã chuyển thành Việt Nam Quốc dân Đảng) và hoạt động trong tổ chức Thanh niên Bắc Kỳ với việc bí mật tổ chức in ấn tài liệu tuyên truyền trong các nhà máy, hầm mỏ để giác ngộ quần chúng công nhân.
Di sản vượt thời gian của đồng chí Hoàng Quốc Việt

Di sản vượt thời gian của đồng chí Hoàng Quốc Việt

“Làm chủ không phải là khẩu hiệu suông. Làm chủ là phải làm chủ được sản xuất, làm chủ đời sống - cả chỗ ở, chỗ học, chỗ nghỉ… Đó là tư tưởng xuyên suốt của bác Hoàng Quốc Việt khi giữ cương vị đứng đầu Tổng Công đoàn Việt Nam” - ông Nguyễn Túc, nguyên thư ký riêng của đồng chí Hoàng Quốc Việt, khẳng định.
Vẹn nguyên tinh thần của lãnh tụ Nguyễn Đức Cảnh

Vẹn nguyên tinh thần của lãnh tụ Nguyễn Đức Cảnh

Trong tiến trình lịch sử cách mạng Việt Nam, giai cấp công nhân và báo chí cách mạng đã đóng vai trò then chốt trong việc thúc đẩy những chuyển biến sâu rộng của xã hội, đặc biệt là trong cuộc đấu tranh chống ách đô hộ của thực dân Pháp và quá trình giải phóng dân tộc. Đóng góp quan trọng trong công cuộc này không thể không nhắc đến đồng chí Nguyễn Đức Cảnh, một trong những lãnh tụ tiêu biểu của phong trào công nhân Việt Nam, đồng thời là người sáng lập và lãnh đạo tổ chức Công đoàn Việt Nam.
Công đoàn Việt Nam: 96 năm son sắt một sứ mệnh tiên phong

Công đoàn Việt Nam: 96 năm son sắt một sứ mệnh tiên phong

Trải qua 96 năm hình thành và phát triển, gắn liền với những chặng đường đấu tranh cách mạng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của dân tộc, Công đoàn Việt Nam luôn khẳng định vị thế là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân, là chỗ dựa tin cậy của người lao động và là cơ sở chính trị - xã hội vững chắc của Đảng và Nhà nước ta.
Xem thêm