Việc sáp nhập đơn vị hành chính cấp tỉnh, thành phố đang thu hút sự quan tâm lớn của dư luận. Nhưng giữa những thay đổi về địa giới, bản đồ hành chính không đồng nghĩa với việc hòa tan bản sắc văn hóa. Mỗi vùng đất như Bắc Ninh, Bắc Giang ở đôi bờ sông Cầu vẫn lưu giữ kho tàng di sản, phong tục, lối sống và tâm hồn riêng. Sáp nhập là để quản lý hiệu quả hơn, còn văn hóa, chính là nhịp tim của mỗi vùng quê, cần được trân trọng gìn giữ nguyên vẹn.
Chung một tinh thần
Chúng tôi ghé thăm vùng đất di sản Kinh Bắc vào một chiều tháng Năm, không khỏi bất ngờ trước mật độ “dày đặc” của các di sản văn hóa vật thể lẫn phi vật thể, hiện diện như những lớp trầm tích sống động giữa lòng cuộc sống đương đại. Mỗi di tích, làn điệu dân ca nơi đây đều ghi đậm dấu ấn của bao thế hệ cha ông, trên chặng hành trình dựng nước và giữ nước.
Theo đề án thay đổi địa giới hành chính, tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang hợp nhất thành một đơn vị hành chính mới, giữ tên gọi tỉnh Bắc Ninh, với trung tâm chính trị - hành chính đặt tại khu vực tỉnh Bắc Giang hiện nay. Bước đi này mở ra kỳ vọng định hình lại Kinh Bắc xưa trong cấu trúc hiện đại, năng động và giàu bản sắc văn hóa.
![]() |
| Hát quan họ trên thuyền phục vụ du khách tại Hội Lim. Ảnh: Thanh Tùng. |
Ít ai biết, trong quá khứ, Bắc Giang và Bắc Ninh từng có thời gian “chung một mái nhà”, mang tên tỉnh Hà Bắc. Sự kiện này diễn ra vào năm 1962, khi hai tỉnh được sáp nhập thành một đơn vị hành chính duy nhất. Tỉnh Hà Bắc tồn tại trong suốt 34 năm, đến năm 1996, trước khi Quốc hội quyết định tái lập hai tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang như hiện nay.
Bao đời nay, dòng sông Cầu vẫn lặng lẽ chảy giữa đôi bờ Bắc Ninh - Bắc Giang, như một chứng nhân của lịch sử, một dải lụa mềm kết nối những giá trị văn hóa chung của miền Kinh Bắc. Dẫu mỗi bên mang nét riêng về thổ nhưỡng, phong tục, giọng điệu, nhưng cả hai cùng chung một tinh thần: Xem văn hóa là cốt lõi của bản sắc, là cội nguồn hun đúc nên ý chí và hồn cốt dân tộc.
Chính tinh thần ấy đã giữ cho các làn điệu quan họ, những canh hát ca trù, những lễ hội truyền thống không chỉ sống còn mà còn lan tỏa mạnh mẽ qua thời gian, vượt qua ranh giới hành chính để tạo nên một không gian văn hóa thống nhất, giàu sức sống.
Năm 2009, Dân ca Quan họ Bắc Ninh chính thức được UNESCO ghi danh là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Sau 15 năm, từ những hạt nhân ban đầu, Quan họ đã phát triển vượt khỏi giới hạn làng quê, với hơn 150 làng thực hành Quan họ, gần 400 câu lạc bộ dân ca, trải khắp các huyện, thị xã và thành phố, thu hút hàng chục nghìn người thuộc nhiều thế hệ. Đến nay, quan họ không còn chỉ là ký ức, mà còn là niềm tự hào, được lan tỏa trong từng câu hát “người ơi người ở đừng về”.
Cùng thời điểm đó, Bắc Giang - một trong những địa phương có ca trù được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp, cũng bước vào hành trình bền bỉ để giữ gìn những gì tinh túy nhất của cha ông. Từ 5 câu lạc bộ Quan họ ban đầu, đến nay toàn tỉnh đã có 84 câu lạc bộ với gần 1.500 hội viên, trải rộng khắp các huyện, thành phố, đặc biệt là vùng trung tâm như Việt Yên - nơi được ví là bờ Bắc của không gian Quan họ truyền thống.
Trước nỗi trăn trở về văn hóa của xứ Kinh Bắc sau hợp nhất, chúng tôi tìm gặp nhạc sĩ Ngọc Lương – Nguyên Trưởng phòng Nghệ thuật quần chúng, Trung tâm Văn hóa tỉnh Bắc Ninh. Bà cũng là con gái của NSND Thúy Cải – một trong những người đặt viên gạch đầu tiên xây dựng Đoàn Dân ca Quan họ Bắc Ninh.
Nhạc sĩ Ngọc Lương khẳng định, việc sáp nhập các tỉnh, thành không chỉ là vấn đề quản lý hành chính, mà còn là bước phát triển về kinh tế và văn hóa. Xưa kia, Bắc Ninh và Bắc Giang đều nằm trong vùng văn hóa Kinh Bắc. Các loại hình quan họ và ca trù là đều là “quốc hồn, quốc túy” và xuất hiện ở 2 địa phương.
Nếu lâu nay, đa số mọi người chỉ nghe tới quan họ Bắc Ninh, thì ở Bắc Giang cũng có các làng quan họ cổ, lâu đời như Hữu Nghi, Giá Sơn, Nội Ninh, Mai Vũ (xã Ninh Sơn) và Sen Hồ (thị trấn Nếnh). Từ 5 câu lạc bộ quan họ ban đầu, đến nay, toàn tỉnh đã xây dựng được 84 câu lạc bộ với gần 1.500 hội viên, đặc biệt tại vùng trung tâm như Việt Yên – nơi được ví là bờ Bắc của không gian Quan họ truyền thống.
Hay với ca trù - một nét văn hóa lâu đời gắn liền với vùng đất Bắc Giang, toàn tỉnh Bắc Ninh có ba địa phương còn lưu giữ, thành lập được các câu lạc bộ ca trù là phường Thanh Khương (thị xã Thuận Thành), thôn Tiểu Than – xã Vạn Ninh (huyện Gia Bình), và thôn Thượng Thôn, xã Đông Tiến (huyện Yên Phong), với gần 100 hội viên đang hoạt động.
Để lưu truyền lời ca, nhịp phách, các câu lạc bộ thường xuyên luyện tập, tổ chức giao lưu giữa các nhóm hát. Tỉnh Bắc Ninh cũng thường xyên tổ chức các lớp học truyền dạy di sản ca trù tại cộng đồng, để đưa vốn cổ văn hóa đến với đông đảo người dân.
| Nhạc sĩ Ngọc Lương (giữa) say sưa bên cây đàn. Ảnh: NVCC. |
Khi đề án sáp nhập hai tỉnh Bắc Giang - Bắc Ninh được công bố, nhiều ý kiến lo rằng bản sắc riêng biệt của dân ca quan họ Bắc Ninh và hát ca trù Bắc Giang sẽ bị “phai nhạt”. Tuy vậy, theo nhạc sĩ Ngọc Lương, việc hợp nhất không làm nhòa đi bản sắc của từng vùng, mà còn tạo điều kiện để mở rộng không gian gìn giữ và quảng bá văn hóa.
“Ở một số phương diện, Quan họ và Ca trù có thể giao thoa về hình thức biểu đạt – từ giai điệu, tiết tấu đến cách ngâm nga. Tuy nhiên, đây đều các loại hình thuần khiết, gắn với một không gian văn hóa và một hệ giá trị riêng biệt. Do vậy, việc sáp nhập địa giới hành chính khó thể “hòa tan” các loại hình nghệ thuật vào làm một”. Quan trọng nhất vẫn là bảo tồn được bản sắc đặc thù, hay còn gọi là “cốt hồn” của từng loại hình nghệ thuật”, bà Lương cho hay.
Trong bối cảnh hợp nhất, hàng trăm nghệ nhân ở cả 2 tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang vẫn đang lặng lẽ “giữ lửa” cho các giá trị nghệ thuật truyền thống. Dưới các mái đình làng quê, đến sân khấu hội diễn, họ không chỉ biểu diễn, mà còn truyền dạy, kể lại câu chuyện của từng làn điệu, từng nhịp phách bằng cả tình yêu và sự tận tâm. Các nghệ nhân là cầu nối, sợi dây gắn kết Quan họ - Ca trù, tạo nên bản sắc văn hóa Kinh Bắc thống nhất: Vừa cổ kính, vừa đương đại, vừa truyền thống, vừa tràn đầy sức sống.
Văn hóa không thể “cộng lại, rồi chia đều”
Ở một góc nhìn khác, nhà văn Trần Thị Trường, nguyên Phó Giám đốc khu vực phía Bắc Trung Tâm Quyền tác giả âm nhạc Việt Nam đã nêu quan điểm với cương vị một người luôn đau đáu tìm hiểu về công tác bảo tồn các di sản. Theo bà, văn hóa là bản sắc, là chiều sâu của một cộng đồng, không thể bị “sáp nhập” theo kiểu hành chính. Văn hóa tồn tại trong ngôn ngữ, tập quán, tín ngưỡng, lễ hội, ẩm thực, trong từng câu hò tiếng hát – những thứ đó không thể “cộng lại, rồi chia đều”.
![]() |
| Nhà văn Trần Thị Trường. Ảnh: NVCC. |
Với hai địa phương Bắc Giang và Bắc Ninh, việc sáp nhập có nguy cơ làm phai nhạt bản sắc văn hóa riêng, nhưng không phải là tất yếu. Bắc Giang và Bắc Ninh tuy gần nhau về địa lý nhưng có những nét văn hóa rất riêng. Bắc Ninh nổi bật với dân ca quan họ- di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại, trong khi Bắc Giang lại nổi tiếng với ca trù, hát then, hát chèo và các làng nghề truyền thống sâu sắc.
Nếu sau sáp nhập, không có một chính sách phân bổ nguồn lực công bằng và tinh tế, hoặc không có thiết chế văn hóa đủ linh hoạt để bảo vệ tính đặc thù, thì nguy cơ “phai nhạt trong thống nhất” là hoàn toàn hiện hữu. Văn hóa không tự mất đi, nhưng nó dễ bị lấn át nếu không có không gian phát huy và cơ chế bảo vệ.
“Quan họ Bắc Ninh và ca trù ở Bắc Giang đều đã được UNESCO ghi nhận, điều đó nghĩa là chúng không chỉ là tài sản của địa phương mà còn là di sản của nhân loại. Tuy nhiên, di sản chỉ sống khi có người nuôi dưỡng, mà để nuôi dưỡng thì cần sự đồng hành của chính sách- từ ngân sách, truyền thông, đến giáo dục văn hóa cộng đồng”, nhà văn Trần Thị Trường nêu quan điểm.
Để bảo tồn bản sắc riêng của các loại hình nghệ thuật, chính sách cần phân biệt rõ khái niệm “quản lý hành chính” và “bảo tồn văn hóa”; thể chế hóa quyền tự chủ văn hóa của các cộng đồng. Có thể trao quyền cho địa phương, cho nghệ nhân, cho cộng đồng dân cư trong việc quyết định và tổ chức hoạt động văn hóa. Đồng thời, cần tôn trọng đa dạng và không áp đặt mô hình “một màu” cho tất cả các địa phương sau sáp nhập. Văn hóa cần được bảo vệ như những cội rễ, dù thân cây có thay đổi hình dáng.
Cần có chính sách phù hợp với từng địa phương
Theo TS. Trần Hữu Sơn, Viện trưởng Viện nghiên cứu ứng dụng văn hóa và du lịch, nguyên Phó Chủ tịch Thường trực Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam, nguyên Giám đốc Sở Văn hóa, Thể Thao và Du lịch tỉnh Lào Cai hành trình sáp nhập hai vùng đất cổ Bắc Giang - Bắc Ninh sẽ không làm phai nhạt các giá trị văn hóa truyền thống. Ngược lại, việc hợp nhất có thể tạo điều kiện để quảng bá văn hóa, làm phong phú thêm bản đồ di sản vùng Kinh Bắc.
![]() |
| TS. Trần Hữu Sơn. Ảnh: NVCC. |
Không chỉ Bắc Ninh, mà cả Bắc Giang cũng có những làng quan họ cổ, các điểm thực hành ca trù lâu đời. Ngoài những làn điệu đặc sắc, thắm đượm tình người, hai vùng đất này còn có một kho tàng di tích sống động, với tuổi thọ lên đến “hàng nghìn năm”. Các lễ hội như hội Lim (Bắc Ninh), hội Yên Thế (Bắc Giang) hay các di sản vật thể, phi vật thể sẽ có cơ hội kết nối, tạo thành chuỗi trải nghiệm du lịch văn hóa – tâm linh phong phú, hấp dẫn.
Tuy vậy, công cuộc bảo tồn các di sản văn hóa sau sáp nhập, không thể chỉ dựa vào khung pháp lý chung. Mỗi địa phương cần có cơ chế, chính sách riêng, phù hợp với đặc thù văn hóa bản địa. Ông Sơn lấy ví dụ, các chính sách đang được Bắc Ninh triển khai hiệu quả như hỗ trợ kinh phí cho các câu lạc bộ quan họ, tổ chức biểu diễn tại các làng quan họ cổ, đưa dân ca vào giảng dạy trong trường học… hoàn toàn có thể nghiên cứu, mở rộng sang Bắc Giang – địa phương vẫn đang giữ gìn những làng quan họ gốc và không gian ca trù truyền thống. Việc nhân rộng chính sách phù hợp tạo nền tảng bền vững để bảo tồn, phát huy di sản trong bối cảnh mới.
Một giải pháp quan trọng khác là xây dựng bài bản, có chiều sâu các đề án bảo tồn văn hóa. Bắc Ninh và Bắc Giang đều là 2 địa phương giàu truyền thống, nổi tiếng với hệ thống di tích văn hóa dày đặc. Tuy vậy, không phải di tích nào cũng được bảo tồn đúng mức. Do đó, việc rà soát, đánh giá mức độ mai một của từng di tích là cần thiết, từ đó ưu tiên phân bổ nguồn lực đầu tư cho các địa điểm có dấu hiệu xuống cấp. Đây vừa là cách gìn giữ ký ức văn hóa, vừa là nền tảng để phát triển bền vững các di tích trong tương lai.
Không chỉ vậy, việc phát huy giá trị di sản cũng cần được chú trọng bằng cách tổ chức các chương trình văn hóa có sức lan tỏa lớn. Đơn cử như các Festival hát ca trù - Quan họ quy mô vùng, với sự tham gia của cả Bắc Ninh và Bắc Giang. Hệ thống giải thưởng cần được mở rộng, để khuyến khích người dân, đặc biệt là thế hệ trẻ các địa phương tham gia.
Mặt khác, có thể xem xét tổ chức lễ hội tại một di tích cụ thể - nơi kết tinh tự hào về cội nguồn và lịch sử dân tộc. Hình thức này không chỉ làm “sống dậy” di sản, mà còn nuôi dưỡng đời sống văn hóa tinh thần trong cộng đồng.
“Tại Bắc Giang, hành lang văn hóa phía Tây với hệ thống di tích tiềm năng đang là ‘kho tàng ngủ quên’, chờ được đánh thức. Nếu Nhà nước ban hành các chính sách phát triển văn hòa phù hợp, khu vực này có thể trở thành không gian lễ hội giàu bản sắc, vừa bảo tồn được giá trị truyền thống, vừa tạo động lực thúc đẩy du lịch, gắn kết công đồng”, TS. Trần Hữu Sơn nêu ý kiến.
Đọc nhiều
Tin mới hơn
Không thể phủ nhận thành tựu chính sách dân tộc ở Tây Bắc
Kỳ 5: Nghị quyết chỉ thật sự là “ngọn đuốc” khi chạm đến trái tim Nhân dân
Kỳ 4: Khát vọng Việt Nam hùng cường trong tầm nhìn toàn cầu
Tin tức khác
Kỳ 2: Dấu ấn tầm nhìn chiến lược của Tổng Bí thư Tô Lâm trên hành trình kiến tạo Quốc gia số
Kỳ 5: Quốc hội không chỉ làm luật mà phải kiến tạo thể chế để dẫn dắt phát triển
Kỳ 3: Xây dựng con người, bồi đắp văn hóa: Đảng nói đi đôi với làm
Kỳ 1: Từ tư tưởng Mác – Lênin, Hồ Chí Minh đến Nghị quyết 57-NQ/TW: Dấu ấn mới trên con đường vươn mình
Kỳ 2: Hai trụ cột xây “ngôi nhà năng lượng mới” cho đất nước


