Một số đặc điểm về học vấn, chuyên môn của công nhân hiện nay
Nghiên cứu

Một số đặc điểm về học vấn, chuyên môn của công nhân hiện nay

DƯƠNG THỊ DUYÊN (Trường Đại học Sân khấu - Điện ảnh) ĐIỆN ẢNH HÀ NỘI
Với sự nỗ lực, tự học hỏi, rèn luyện, công nhân đã có trình độ học vấn và chuyên môn nghề nghiệp khá cao, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Sự ra đời và phát triển của giai cấp công nhân Việt Nam

Sự ra đời của giai cấp công nhân Việt Nam gắn với quá trình khai thác thuộc địa của thực dân Pháp vào những năm nửa cuối thế kỷ XIX. Sự mở rộng quy mô khai thác thuộc địa, phát triển công nghiệp của thực dân Pháp đã làm cho đội ngũ công nhân Việt Nam ngày càng đông đảo, hình thành nên một giai cấp.

Theo số liệu thống kê (từ năm 1897 đến năm 1914) của thực dân Pháp, các Khu công nghiệp tập trung ở Hà Nội, Sài Gòn, Hải Phòng, Nam Định, Vinh - Bến Thủy, Hòn Gai đã làm cho số công nhân tăng nhanh...

Số lượng công nhân năm 1906 là 49.500 người, trong đó có 1.800 thợ chuyên môn.

Nhiều xí nghiệp tập trung đông công nhân như: Xi măng Hải Phòng có 1.500 người, 3 nhà máy dệt ở Nam Định, Hải Phòng, Hà Nội cũng có 1.800 người, các nhà máy xay xát ở Sài Gòn có tới 3.000 người, riêng trên các tuyến đường sắt Vân Nam - Hải Phòng đã thu hút tới 6 vạn người.
Ngành mỏ (năm 1914) có tới 4.000 thợ, đó là chưa kể số “thợ theo mùa”.

Tổng số công nhân Việt Nam tính đến trước chiến tranh thế giới lần thứ I có khoảng 10 vạn người.

Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, để bù đắp những tổn thất, thực dân Pháp đã tiến hành cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai với quy mô và tốc độ lớn hơn trước. Các ông chủ nước ngoài tăng cường đầu tư vào các ngành khai khoáng, giao thông vận tải, đồn điền, công nghiệp chế biến, dệt may... nhằm tăng cường vơ vét và bóc lột ở các nước thuộc địa.

Thời kỳ này, số lượng công nhân Việt Nam đã phát triển nhanh chóng lên đến trên 22 vạn người vào đầu năm 1929, trong đó có 5,3 vạn thợ mỏ, 8,6 vạn công nhân các ngành công thương nghiệp, 8,1 vạn công nhân các đồn điền trồng cây công nghiệp.

Đó là chưa kể đến những người làm ở xí nghiệp thủ công lớn, nhỏ, thợ may, thợ cạo, thợ giặt, bồi bếp, khuân vác ở hải cảng...

Đa số công nhân nước ta có nguồn gốc xuất thân từ nông dân. Trong số 27.505 công nhân, đồn điền, thợ mỏ ở 15 tỉnh Bắc Kỳ vào năm 1929 thì có tới 24.658 người là nông dân (chiếm 84,6%).

Từ khi chủ nghĩa Mác-Lênin được truyền bá vào Việt Nam, số lượng các cuộc bãi công ngày một tăng và quan trọng hơn là bãi công có tính chất chính trị, có tổ chức lãnh đạo.

Nếu như năm 1927 có 7 cuộc bãi công thì năm 1929 có đến 24 cuộc, năm 1930 là 30 cuộc với số lượng người tham gia lên đến ngót 32.000 người.

Sự phát triển mạnh mẽ của phong trào công nhân và phong trào yêu nước từ năm 1925 đến năm 1929 là một điều kiện quyết định sự ra đời các tổ chức Cộng sản và Công hội Đỏ ở Việt Nam, đặc biệt là sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam vào đầu năm 1930.

Kể từ khi có Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, giai cấp công nhân Việt Nam ngày càng phát triển mạnh cả về số lượng và chất lượng. Là một trong những lực lượng nòng cốt dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng đã cùng với các giai cấp, tầng lớp nhân dân lao động đứng lên đấu tranh giành chính quyền, thực hiện cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội thời kỳ mới.

Giai cấp công nhân Việt Nam là một bộ phận của giai cấp công nhân thế giới.

Đặc điểm về trình độ học vấn, chuyên môn nghề nghiệp
của giai cấp công nhân hiện nay

Có thể thấy, từ khi ra đời đến nay, giai cấp công nhân Việt Nam ngày càng có sự phát triển cả về số lượng và chất lượng. Nhằm tăng cường hơn nữa vai trò và sức mạnh của giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) đã ban hành Nghị quyết số 20-NQ/TW, ngày 28-01-2008 về “Tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.

Một số đặc điểm về học vấn, chuyên môn của công nhân hiện nay

Bác Hồ thăm cán bộ, công nhân Nhà máy in Tiến Bộ, Hà Nội, ngày 13/5/1959.
Ảnh: Tư liệu.

Qua hơn 15 năm thực hiện Nghị quyết, giai cấp công nhân Việt Nam đã đạt được một số kết quả quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.

Sự gia tăng về số lượng của giai cấp công nhân ở nước ta trong những năm qua chủ yếu là nhờ vào sự phát triển ngành công nghiệp, dịch vụ, du lịch của các thành phần kinh tế, trong đó có sự đóng góp lớn của thành phần kinh tế ngoài nhà nước, đây là khu vực có số lượng công nhân tăng lên nhanh chóng, góp phần vào sự tăng trưởng nhanh về số lượng của giai cấp công nhân nước ta.

Nếu như trước những năm đổi mới, số lượng công nhân nước ta là 7 triệu, đến năm 2007 là 9,5 triệu và năm 2013 tăng lên gần 11 triệu thì hiện nay khoảng 14,8 triệu người, chiếm hơn 14% dân số và hơn 29% lực lượng lao động toàn xã hội[1].

Hiện cơ cấu giai cấp công nhân nước ta trong các ngành kinh tế là: Ngành công nghiệp, chế tạo chiếm 51,33%; ngành xây dựng chiếm 9,24%; thương mại, dịch vụ chiếm 27,92%; vận tải chiếm 4,63%; các ngành khác chiếm 6,88%[2].

Trong đó, công nhân tập trung chủ yếu ở khối doanh nghiệp ngoài nhà nước, với 58,14% thuộc doanh nghiệp tư nhân trong nước, 35,25% trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và chỉ 6,61% thuộc doanh nghiệp nhà nước[3]

Công nhân trong các KCN, các doanh nghiệp khu vực ngoài nhà nước và có vốn đầu tư nước ngoài được tiếp xúc với máy móc, thiết bị hiện đại, làm việc với các chuyên gia nước ngoài được học hỏi, nâng cao tay nghề, kỹ năng lao động, rèn luyện tác phong công nghiệp, phương pháp làm việc tiên tiến.

Lớp công nhân trẻ được đào tạo nghề theo chuẩn nghề nghiệp ngay từ đầu, có tri thức, nắm vững khoa học - công nghệ tiên tiến, được rèn luyện trong thực tiễn sản xuất hiện đại,… dần khẳng định là lực lượng lao động chủ đạo trong xã hội, có tác động tích cực đến sản xuất công nghiệp, giá trị sản phẩm công nghiệp, gia tăng khả năng cạnh tranh của nền kinh tế.

Tuy chỉ chiếm tỷ lệ trên 14% dân số, 27% lực lượng lao động xã hội, song hằng năm GCCN nước ta đã tạo ra trên 65% giá trị tổng sản phẩm xã hội và hơn 70% ngân sách nhà nước[4].

Bộ phận công nhân lao động trí óc trong những lĩnh vực sản xuất vật chất phức tạp chính là công nhân trí thức mà Đảng đã khẳng định trong các văn kiện, nghị quyết. Trong tổng số lao động nước ta, khoảng 26,4% lao động đã qua đào tạo, trong đó 15,6% lao động có trình độ cao đẳng, đại học[5].

Nếu phân theo trình độ công nghệ, chỉ tính riêng trong ngành chế biến, chế tạo, công nhân có trình độ công nghệ cao chiếm 21,87%, công nhân có trình độ công nghệ trung bình chiếm 14,68%[6].

Bên cạnh những kết quả đạt được thì công nhân Việt Nam hiện nay vẫn còn một số những hạn chế nhất định về trình độ học vấn và chuyên môn nghiệp vụ.

Số lượng công nhân trong các doanh nghiệp nhà nước có xu hướng giảm; sự phân tầng xã hội, phân hóa giàu nghèo trong giai cấp công nhân ngày càng sâu sắc.

Công nhân trong doanh nghiệp ngoài nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phát triển nhanh, ngược lại, công nhân trong doanh nghiệp nhà nước ngày càng giảm về số lượng.

Trước yêu cầu của sự phát triển, giai cấp công nhân nước ta còn nhiều hạn chế, bất cập. Sự phát triển của giai cấp công nhân chưa đáp ứng được yêu cầu về số lượng, cơ cấu và trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế; thiếu nghiêm trọng các chuyên gia kỹ thuật, cán bộ quản lý giỏi, công nhân lành nghề; tác phong công nghiệp và kỷ luật lao động còn nhiều hạn chế; đa phần công nhân từ nông dân, chưa được đào tạo cơ bản và có hệ thống.

Việt Nam đang ở trong giai đoạn cơ cấu “dân số vàng”. Tuy nhiên, quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế lại không tương thích với quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động.

Trình độ văn hóa và tay nghề của công nhân thấp đã ảnh hưởng không tốt đến việc tiếp thu khoa học - kỹ thuật, đến năng suất lao động, chất lượng sản phẩm.

Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, với tốc độ tăng năng suất lao động như hiện nay, thì phải đến năm 2038 năng suất lao động của công nhân Việt Nam mới bắt kịp Philippines, năm 2069 chúng ta mới bắt kịp được Thái Lan, do đó, chúng ta cần có đối sách để nâng cao chất lượng nhân lực, góp phần nâng cao năng suất lao động trong quá trình cạnh tranh thời hội nhập.

Nếu không có kế hoạch đón nhận và đào tạo đón đầu, thì chúng ta sẽ bị thiếu hụt nghiêm trọng về lao động khi các dự án lớn đầu tư vào Việt Nam đi vào sản xuất.

Một số giải pháp nhằm nâng cao trình độ học vấn,
chuyên môn nghề nghiệp của công nhân Việt Nam
trong thời gian tới

Một là, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với các tổ chức chính trị - xã hội trong các doanh nghiệp đặc biệt là tổ chức công đoàn. Đồng thời, đổi mới hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội trong các doanh nghiệp phù hợp với tình hình mới.

Phát huy vai trò của công đoàn trong việc bảo vệ quyền và lợi ích của người lao động, khuyến khích, tạo điều kiện để công nhân và người lao động đi học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ, tay nghề.

Hai là, cải cách triệt để hệ thống giáo dục và đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ và tay nghề cho giai cấp công nhân. Đây là một vấn đề sống còn đối với người công nhân và việc phát triển giai cấp công nhân trong tình hình mới nhằm nâng cao kiến thức và chuyên môn nghiệp vụ cho công nhân.

Ba là, thiết thực chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của giai cấp công nhân. Trong xã hội hiện nay, cùng với nông dân, giai cấp công nhân là những người nghèo trong xã hội.

Bốn là, tiếp tục hoàn thiện và thực hiện nghiêm pháp luật lao động, an toàn, vệ sinh lao động, bảo hiểm xã hội, xử lý nghiêm những vi phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của công nhân; chú trọng chăm lo, cải thiện điều kiện lao động, phòng, chống có hiệu quả tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp; quan tâm xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thực hiện có hiệu quả chính sách chăm sóc sức khỏe cho công nhân, người lao động, nhất là công nhân, người lao động nữ, những công nhân làm việc nặng nhọc, độc hại...

Năm là, cần phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao gắn với phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ được cho là yếu tố quyết định để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá đất nước, đồng thời nâng cao trình độ, chuyên môn của giai cấp công nhân, nâng cao năng lực của người lao động và làm giảm đi sự phân hoá giàu nghèo trong xã hội.

Sáu là, xây dựng giai cấp công nhân phải gắn kết chặt chẽ với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, cần phải xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế gắn với phát triển bền vững, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, đảm bảo hài hòa lợi ích của người lao động và người sử dụng lao động, của các doanh nghiệp và toàn xã hội.

Có thể thấy rằng, trong giai đoạn hiện nay, công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã đặt ra cho Việt Nam rất nhiều thách thức lớn, đặc biệt là đối với người lao động nói chung và giai cấp công nhân nói riêng.

Qua gần 40 năm đổi mới đất nước với nhiều thành tựu nhưng cũng nhiều thách thức đan xen nhưng với trí tuệ và năng lực của công nhân cùng với sự trợ giúp của Đảng, Nhà nước và các cấp, các ngành, chúng ta hoàn toàn có thể tin tưởng vào sự lớn mạnh của công nhân Việt Nam trong thời đại mới, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

giai cấp công nhân

CHÚ THÍCH:

[1] Tổng cục Thống kê, Niên giám thống kê 2022, Nxb Thống kê, Hà Nội, 2023, tr.393

[2] Tổng cục Thống kê, Niên giám thống kê 2022, Nxb Thống kê, Hà Nội, 2023, tr. 418

[3] Tổng cục Thống kê, Niên giám thống kê 2022, Nxb Thống kê, Hà Nội, 2023, tr. 412

[4] Quan điểm của Đảng ta về giai cấp công nhân trong văn kiện Đại hội của Đảng từ sau đổi mới đến nay (2021), https://www.baohoabinh.com.vn/41/156208/Quan-diem-cua-Dang-ta-ve-giai-cap-cong-nhan-tr111ng-van-kien-Dai-hoi-cua-Dang-tu-sau-doi-moi-den-nay.htm,

[5] Tổng cục Thống kê, Niên giám thống kê 2022, Nxb Thống kê, Hà Nội, 2023, tr. 179

[6] Tổng cục Thống kê, Niên giám thống kê 2022, Nxb Thống kê, Hà Nội, 2023, tr. 541

[7] Trần Thị Như Quỳnh (2023), Thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân việt nam thời kỳ đổi mới, https://hcma2.hcma.vn/nghiencuukhoahoc/Pages/con-duong-di-len-cnxh.aspx?CateID=345&ItemID=12633.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Đại học Quốc gia Hà Nội (2010), Giai cấp công nhân Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

  2. Phan Linh: Vị thế của GCCN Việt Nam - Một vấn đề đặt ra về nhận thức trong bối cảnh mới, Tạp chí Mặt trận điện tử, 29/12/2020.

  3. Mạch Quang Thắng (2014), “Nghiên cứu, phát triển lý luận về giai cấp công nhân Việt Nam”, Tạp chí Khoa học chính trị, số 2.

  4. Vũ Quang Thọ (2015), Xây dựng lối sống văn hóa của công nhân Việt Nam - Lý luận và thực tiễn, Nxb Lao động, Hà Nội.

Công nhân Việt Nam khẳng định “Tiên phong, sáng tạo, trách nhiệm, an toàn, thích ứng” Công nhân Việt Nam khẳng định “Tiên phong, sáng tạo, trách nhiệm, an toàn, thích ứng”

Năm 2022 là năm thứ 11 thực hiện Kết luận của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tổ chức Tháng Công nhân. Được sự ...

Bài 1: Quan niệm thế nào về giai cấp công nhân trong cơ cấu xã hội - giai cấp hiện nay Bài 1: Quan niệm thế nào về giai cấp công nhân trong cơ cấu xã hội - giai cấp hiện nay

Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam hiện đại, lớn mạnh đáp ứng yêu cầu thực hiện mục tiêu xây dựng đất nước đến ...

Bài 1: Tình hình việc làm, thu nhập của công nhân lao động trong bối cảnh hiện nay Bài 1: Tình hình việc làm, thu nhập của công nhân lao động trong bối cảnh hiện nay

Loạt bài viết này được hình thành dựa trên kết quả khảo sát điều tra về tình hình việc làm, thu nhập, đời sống của ...

Bài 3: Từ tiếp cận thụ hưởng chính sách của CNLĐ đến phát triển thị trường lao động Bài 3: Từ tiếp cận thụ hưởng chính sách của CNLĐ đến phát triển thị trường lao động

Trước tình hình việc làm, thu nhập, đời sống của công nhân lao động (CNLĐ) gặp nhiều khó khăn trong những năm qua, một trong ...

Những đặc điểm chủ yếu của giai cấp công nhân Việt Nam Những đặc điểm chủ yếu của giai cấp công nhân Việt Nam

Do đặc điểm sự hình thành của mình, giai cấp công nhân Việt Nam có những đặc điểm riêng. Những đặc điểm ấy quy định ...

Tin mới hơn

Lý luận gắn với thực tiễn theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Lý luận gắn với thực tiễn theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh luôn rất coi trọng lý luận, việc học tập lý luận của cán bộ, đảng viên và toàn thể nhân dân.
Tăng cường khối đoàn kết xây dựng Đảng vững mạnh theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh

Tăng cường khối đoàn kết xây dựng Đảng vững mạnh theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh

Đoàn kết, gắn bó chặt chẽ nhằm phát huy sức mạnh của cộng đồng để chống thiên tai và ngoại xâm là truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam. Đến Hồ Chí Minh thì “Đại đoàn kết được xây dựng trên cả một lý luận chứ không còn đơn thuần là tình cảm tự nhiên của người trong một nước phải thương nhau cùng” , nghĩa là, trong tư duy lý luận của Hồ Chí Minh, tư tưởng đại đoàn kết được hình thành và phát triển trên một nền tảng lý luận khoa học và thực tiễn hết sức phong phú, sâu sắc.
Phát huy nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách trong công tác xây dựng Đảng

Phát huy nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách trong công tác xây dựng Đảng

Học tập và vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, từ khi thành lập Đảng đến nay Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng nguyên tắc tập trung dân chủ, coi đó là nguyên tắc số một trong xây dựng Đảng. Trong điều kiện Đảng cầm quyền ở nước ta, biểu hiện cụ thể của nguyên tắc đó chính là nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Đây vừa là một nguyên tắc trong hoạt động lãnh đạo của Đảng, vừa là một nội dung biểu hiện của nguyên tắc tập trung dân chủ. Nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách góp phần xây dựng Đảng vững mạnh trên cả ba mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức.

Tin tức khác

Những giá trị lý luận về phong trào cách mạng và Đảng Cộng sản ở Việt Nam của đồng chí Nguyễn Đức Cảnh

Những giá trị lý luận về phong trào cách mạng và Đảng Cộng sản ở Việt Nam của đồng chí Nguyễn Đức Cảnh

Nguyễn Đức Cảnh sinh ra và lớn lên trong một gia đình nhà nho nghèo, được người cha dạy chữ, được tiếp thu truyền thống yêu nước của quê hương, gia đình, dòng họ; lớn lên trong bối cảnh đất nước lầm than, bị ngoại bang đô hộ, lại sớm được đọc và chịu ảnh hưởng của một số tác phẩm, bài viết của Nguyễn Ái Quốc, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh - những nhà yêu nước Việt Nam.
Vai trò của đồng chí Nguyễn Đức Cảnh trong việc sáng lập và lãnh đạo Tổng Công hội Đỏ Bắc Kỳ

Vai trò của đồng chí Nguyễn Đức Cảnh trong việc sáng lập và lãnh đạo Tổng Công hội Đỏ Bắc Kỳ

Tổng Công hội Đỏ Bắc Kỳ, tổ chức tiền thân của Tổng LĐLĐ Việt Nam ra đời ngày 28/7/1929 là kết quả tất yếu của phong trào công nhân, là thắng lợi của đường lối công vận của Đảng ta và đáp ứng yêu cầu bức thiết của phong trào công nhân đang phát triển mạnh mẽ, đánh dấu sự trưởng thành về tổ chức của giai cấp công nhân Việt Nam.
Đồng chí Nguyễn Đức Cảnh và những cống hiến lịch sử thúc đẩy Cách mạng Việt Nam

Đồng chí Nguyễn Đức Cảnh và những cống hiến lịch sử thúc đẩy Cách mạng Việt Nam

Trở về Hà Nội từ Quảng Châu (Trung Quốc) sau khi đã nghiên cứu, tìm hiểu và gia nhập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, Nguyễn Đức Cảnh chính thức ly khai khỏi Nam Đồng Thư xã (lúc này đã chuyển thành Việt Nam Quốc dân Đảng) và hoạt động trong tổ chức Thanh niên Bắc Kỳ với việc bí mật tổ chức in ấn tài liệu tuyên truyền trong các nhà máy, hầm mỏ để giác ngộ quần chúng công nhân.
Di sản vượt thời gian của đồng chí Hoàng Quốc Việt

Di sản vượt thời gian của đồng chí Hoàng Quốc Việt

“Làm chủ không phải là khẩu hiệu suông. Làm chủ là phải làm chủ được sản xuất, làm chủ đời sống - cả chỗ ở, chỗ học, chỗ nghỉ… Đó là tư tưởng xuyên suốt của bác Hoàng Quốc Việt khi giữ cương vị đứng đầu Tổng Công đoàn Việt Nam” - ông Nguyễn Túc, nguyên thư ký riêng của đồng chí Hoàng Quốc Việt, khẳng định.
Vẹn nguyên tinh thần của lãnh tụ Nguyễn Đức Cảnh

Vẹn nguyên tinh thần của lãnh tụ Nguyễn Đức Cảnh

Trong tiến trình lịch sử cách mạng Việt Nam, giai cấp công nhân và báo chí cách mạng đã đóng vai trò then chốt trong việc thúc đẩy những chuyển biến sâu rộng của xã hội, đặc biệt là trong cuộc đấu tranh chống ách đô hộ của thực dân Pháp và quá trình giải phóng dân tộc. Đóng góp quan trọng trong công cuộc này không thể không nhắc đến đồng chí Nguyễn Đức Cảnh, một trong những lãnh tụ tiêu biểu của phong trào công nhân Việt Nam, đồng thời là người sáng lập và lãnh đạo tổ chức Công đoàn Việt Nam.
Công đoàn Việt Nam: 96 năm son sắt một sứ mệnh tiên phong

Công đoàn Việt Nam: 96 năm son sắt một sứ mệnh tiên phong

Trải qua 96 năm hình thành và phát triển, gắn liền với những chặng đường đấu tranh cách mạng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của dân tộc, Công đoàn Việt Nam luôn khẳng định vị thế là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân, là chỗ dựa tin cậy của người lao động và là cơ sở chính trị - xã hội vững chắc của Đảng và Nhà nước ta.
Xem thêm