Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển văn hóa
Nghiên cứu

Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển văn hóa

Trần Quốc Dân
Tác giả: Trần Quốc Dân
Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam; đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực (CLNNL), phát triển con người. Mục tiêu xây dựng và phát triển văn hóa (PTVH) cũng là mục tiêu xây dựng và phát triển con người mới Việt Nam, đặt con người vào vị trí trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời là chủ thể của sự phát triển.
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển văn hóa
Đầu tư phát triển hiệu quả nguồn nhân lực không chỉ tăng cường nguồn lao động sáng tạo nội sinh của văn hóa dân tộc mà còn để nâng cao năng lực làm chủ công nghệ và tiếp thu những thành tựu khoa học hiện đại. Nguồn: tapchitaichinh.vn

1. Sự cần thiết phải nâng cao CLNNL và PTVH

CLNNL là khả năng tổng hợp về thể lực, trí lực, kỹ năng, phong cách, đặc điểm lối sống, tinh thần và đặc biệt là khả năng nghiên cứu, sáng tạo, đổi mới, tiếp thu và ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật, công nghệ mới trong quá trình lao động, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Yếu tố con người luôn đóng vai trò trung tâm của mọi quá trình phát triển. PTVH để văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, khơi dậy tinh thần yêu nước, ý chí tự cường, khát vọng phát triển và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh tổng hợp của nền văn hóa và con người Việt Nam, hình thành nguồn nhân lực chất lượng cao (NNLCLC), thúc đẩy đổi mới sáng tạo, ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ, tạo động lực mới cho phát triển nhanh và bền vững đất nước, bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, đất nước ta bước vào giai đoạn đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới. Yêu cầu nâng cao CLNNL có ý nghĩa quyết định tới sự thành công của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước và phát triển bền vững. Trong công cuộc cải biến xã hội vô cùng sâu sắc này, nguồn NNLCLC là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia. Việc ứng dụng những thành tựu của khoa học, kỹ thuật và công nghệ để phát triển kinh tế - xã hội đòi hỏi phải có NNLCLC đáp ứng.

Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển văn hóa, đặt con người vào trung tâm của sự phát triển
NNLCLC có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia. Nguồn: vietnamplus.vn

Thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, đất nước ta bước vào giai đoạn đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới. Yêu cầu nâng cao CLNNL có ý nghĩa quyết định tới sự thành công của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước và phát triển bền vững. Trong công cuộc cải biến xã hội vô cùng sâu sắc này, nguồn NNLCLC là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia. Việc ứng dụng những thành tựu của khoa học, kỹ thuật và công nghệ để phát triển kinh tế - xã hội đòi hỏi phải có NNLCLC đáp ứng. NNLCLC sẽ bảo đảm rút ngắn thời gian thực hiện CNH, HĐH đất nước. Nước ta tiến hành CNH, HĐH trong bối cảnh của một nước nông nghiệp, nếu không có NNLCLC thì không thể thực hiện những bước nhảy vọt, đi tắt đón đầu. NNLCLC cũng là điều kiện cho việc phát triển nền kinh tế tri thức. Chỉ có NNLCLC mới bảo đảm cho những mục tiêu phát triển, trong đó có mục tiêu phát triển nền kinh tế tri thức.

NNLCLC cũng bảo đảm cho việc nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Nền kinh tế phát triển bền vững hay không phụ thuộc nhiều vào năng lực cạnh tranh quốc gia cao hay thấp. Vì vậy, NNLCLC là một trong những nhân tố quan trọng nhất xác định năng lực cạnh tranh quốc gia, bởi nó có vai trò quyết định trong việc khai thác, sử dụng, bảo vệ, tái tạo các nguồn lực khác.

Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển văn hóa, đặt con người vào trung tâm của sự phát triển
Nâng cao CLNNL có ý nghĩa quyết định tới sự thành công của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước và phát triển bền vững. Ảnh: Thiên Lý

2. PTVH góp phần nâng cao CLNNL

Văn hóa do con người sáng tạo ra. Trong đời sống xã hội, văn hóa vừa phản ánh hiện thực của con người, vừa thúc đẩy sự phát triển, sự hoàn thiện nhân cách, làm phong phú và sâu sắc thêm các giá trị nhân bản, nhân đạo và nhân văn của đời sống xã hội. Văn hóa thúc đẩy sự phát triển đồng thời là kết quả của phát triển, là thước đo sự phát triển con người và xã hội.

Nói tới văn hóa là nói tới con người, nói tới việc phát huy những năng lực bản chất của con người, nhằm hoàn thiện con người, hoàn thiện xã hội. Dưới góc độ văn hóa, đi sâu nghiên cứu vào CLNNL với tư cách là động lực sáng tạo con người, có thể thấy động cơ thúc đẩy hoạt động sáng tạo là năng lực văn hóa của con người, từ đó càng thấy PTVH có vai trò quan trọng trong việc nâng cao CLNNL. Có thể thấy tác động của PTVH đến CLNNL được biểu hiện trên các phương diện sau:

Một là, PTVH văn hóa luôn đi đôi, gắn chặt với con người, PTVH và con người là nhiệm vụ không thể tách rời; PTVH với tư cách nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước. Toàn bộ các giá trị sáng tạo thể hiện thế giới quan, nhân sinh quan, phương thức sống và hoạt động, tính nhân văn của con người, hợp thành nền tảng tinh thần để bảo đảm cho một xã hội phát triển hài hòa, cân đối, bền vững.

Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển văn hóa, đặt con người vào trung tâm của sự phát triển
PTVH góp phần nâng cao CLNNL. Ảnh: Nhật Nam

Hai là, PTVH tạo điều kiện hoàn thiện các chuẩn mực giá trị văn hóa và con người Việt Nam, tạo môi trường và điều kiện để phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật; đề cao tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc, lương tâm, trách nhiệm của mỗi người với bản thân mình, với gia đình, cộng đồng, xã hội và đất nước.

Ba là, PTVH tạo điều kiện để văn hóa thẫm đẫm trong toàn xã hội, trong từng cơ quan, tổ chức, hình thành môi trường văn hóa lành mạnh, phù hợp với công cuộc đẩy mạnh CNH, HĐH, từng bước thu hẹp khoảng cách về hưởng thụ văn hóa giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng miền và các giai tầng xã hội; ngăn chặn và đẩy lùi sự xuống cấp về đạo đức xã hội.

Bốn là, PTVH tạo điều kiện chủ động giao lưu văn hóa quốc tế, tiếp thu có chọn lọc những giá trị tinh thần của nền văn minh nhân loại; đồng thời, phòng ngừa những xu hướng lai căng, xa rời giá trị truyền thống, bảo đảm xây dựng và phát triển con người Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế.

Năm là, PTVH tạo điều kiện củng cố và nâng cao tinh thần đại đoàn kết, nhận thức của toàn dân về ý thức tự tôn dân tộc, tinh thần yêu nước, ý chí phục hưng dân tộc, truyền thống văn hóa, tính tích cực xã hội, hình thành nếp sống văn minh, tác phong công nghiệp, tính chuyên nghiệp, thiết thực, hiệu quả, đề cao, tôn trọng con người, quan tâm nâng cao trí tuệ, cải thiện chất lượng sức khỏe, tầm vóc con người Việt Nam.

Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển văn hóa, đặt con người vào trung tâm của sự phát triển
PTVH để hình thành môi trường văn hóa lành mạnh, phù hợp với công cuộc đẩy mạnh CNH, HĐH, từng bước thu hẹp khoảng cách về hưởng thụ văn hóa giữa thành thị và nông thôn. Nguồn: bing.com

Sáu là, PTVH tạo điều kiện cho sự phát triển trình độ hệ thống giáo dục kể cả bề rộng và chiều sâu. Sự phát triển bao trùm của hệ thống giáo dục sẽ bảo đảm điều kiện để mỗi người dân thụ hưởng một cách công bằng thành quả của nền giáo dục; tạo ra năng lực thu hút nhiều người học, xây dựng xã hội học tập mở, học tập suốt đời, thúc đẩy NNLCLC tăng nhanh về số lượng và chất lượng. Sự phát triển chiều sâu của hệ thống giáo dục tác động mạnh đến yếu tố CLNNL. Trình độ phát triển của hệ thống giáo dục càng cao thì CLNNL được đào tạo cũng càng cao.

Bảy là, PTVH tạo điều kiện cho quá trình tiếp nhận, sử dụng, phát huy NNLCLC hiệu quả hơn. Thực tế cho thấy, đất nước nào sử dụng được NNLCLC có hiệu quả thì quốc gia đó phát triển tốt và ngược lại. Như vậy, PTVH sẽ phát huy cao độ tố chất sáng tạo của NNLCLC, đó vừa là động cơ, vừa là mục tiêu của quá trình sử dụng NNLCLC.

3. Kết luận

Ngày nay, trong bối cảnh toàn cầu hóa, Việt Nam là nước đang phát triển, thu nhập bình quân đầu người còn thấp. Để tránh nguy cơ tụt hậu về kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ, thì việc tập trung nâng cao CLNNL đủ khả năng thích ứng và sáng tạo trong điều kiện hiện nay là giải pháp quan trọng. Đầu tư phát triển hiệu quả nguồn nhân lực không chỉ tăng cường nguồn lao động sáng tạo nội sinh của văn hóa dân tộc mà còn để nâng cao năng lực làm chủ công nghệ, sức cạnh tranh và tiếp thu những thành tựu khoa học hiện đại.

Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển văn hóa
PTVH thu hút nhiều người học, xây dựng xã hội học tập mở, học tập suốt đời, thúc đẩy NNLCLC tăng nhanh về số lượng và chất lượng. Nguồn: baophutho.vn

Những con người Việt Nam phát triển toàn diện, có lý tưởng cao đẹp, phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức, giản dị trong lối sống… chính là cơ sở phát triển NNLCLC đủ sức đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao của công cuộc đổi mới đất nước. Chúng ta phải PTVH để văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, khơi dậy tinh thần yêu nước, ý chí tự cường, khát vọng phát triển và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh tổng hợp của nền văn hóa và con người Việt Nam. Hình thành NNLCLC, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ sẽ tạo động lực mới cho phát triển nhanh và bền vững đất nước, bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Tài liệu tham khảo:

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQG - Sự thật, HN, 2021.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI), Nxb CTQG - Sự thật, HN, 2014.

3. PGS. TS. Vũ Văn Phúc - TS. Nguyễn Duy Hùng: Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH và hội nhập quốc tế, Nxb CTQG - Sự thật, HN, 2012.

Bắc Giang: Ranh giới bệnh nhân Covid-19 ở mức độ vừa phải tới nguy kịch rất nhanh Bắc Giang: Ranh giới bệnh nhân Covid-19 ở mức độ vừa phải tới nguy kịch rất nhanh

“Đợt dịch ở Đà Nẵng, bệnh nhân nặng chủ yếu đều lớn tuổi và có nhiều bệnh nền, nhưng ở Bắc Giang, bệnh nhân nặng ...

1000 tỷ của hai nữ đại gia Phương Hằng- Lê Thị Giàu! 1000 tỷ của hai nữ đại gia Phương Hằng- Lê Thị Giàu!

Bà chủ Đại Nam- CEO Nguyễn Phương Hằng, người nổi tiếng với câu “đồ không có 1000 tỷ” cùng những phát ngôn đình đám khác ...

“Ở nhà         với ngoại ngoan,          mẹ đi rồi sẽ về” “Ở nhà với ngoại ngoan, mẹ đi rồi sẽ về”

Đó là lời dặn dò của Võ Thị Hoài Thương, khoa Gây mê hồi sức, Bệnh viện Đà Nẵng với con khi chị gửi về ...

Tin mới hơn

Lý luận gắn với thực tiễn theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Lý luận gắn với thực tiễn theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh luôn rất coi trọng lý luận, việc học tập lý luận của cán bộ, đảng viên và toàn thể nhân dân.
Tăng cường khối đoàn kết xây dựng Đảng vững mạnh theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh

Tăng cường khối đoàn kết xây dựng Đảng vững mạnh theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh

Đoàn kết, gắn bó chặt chẽ nhằm phát huy sức mạnh của cộng đồng để chống thiên tai và ngoại xâm là truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam. Đến Hồ Chí Minh thì “Đại đoàn kết được xây dựng trên cả một lý luận chứ không còn đơn thuần là tình cảm tự nhiên của người trong một nước phải thương nhau cùng” , nghĩa là, trong tư duy lý luận của Hồ Chí Minh, tư tưởng đại đoàn kết được hình thành và phát triển trên một nền tảng lý luận khoa học và thực tiễn hết sức phong phú, sâu sắc.
Phát huy nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách trong công tác xây dựng Đảng

Phát huy nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách trong công tác xây dựng Đảng

Học tập và vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, từ khi thành lập Đảng đến nay Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng nguyên tắc tập trung dân chủ, coi đó là nguyên tắc số một trong xây dựng Đảng. Trong điều kiện Đảng cầm quyền ở nước ta, biểu hiện cụ thể của nguyên tắc đó chính là nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Đây vừa là một nguyên tắc trong hoạt động lãnh đạo của Đảng, vừa là một nội dung biểu hiện của nguyên tắc tập trung dân chủ. Nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách góp phần xây dựng Đảng vững mạnh trên cả ba mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức.

Tin tức khác

Những giá trị lý luận về phong trào cách mạng và Đảng Cộng sản ở Việt Nam của đồng chí Nguyễn Đức Cảnh

Những giá trị lý luận về phong trào cách mạng và Đảng Cộng sản ở Việt Nam của đồng chí Nguyễn Đức Cảnh

Nguyễn Đức Cảnh sinh ra và lớn lên trong một gia đình nhà nho nghèo, được người cha dạy chữ, được tiếp thu truyền thống yêu nước của quê hương, gia đình, dòng họ; lớn lên trong bối cảnh đất nước lầm than, bị ngoại bang đô hộ, lại sớm được đọc và chịu ảnh hưởng của một số tác phẩm, bài viết của Nguyễn Ái Quốc, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh - những nhà yêu nước Việt Nam.
Vai trò của đồng chí Nguyễn Đức Cảnh trong việc sáng lập và lãnh đạo Tổng Công hội Đỏ Bắc Kỳ

Vai trò của đồng chí Nguyễn Đức Cảnh trong việc sáng lập và lãnh đạo Tổng Công hội Đỏ Bắc Kỳ

Tổng Công hội Đỏ Bắc Kỳ, tổ chức tiền thân của Tổng LĐLĐ Việt Nam ra đời ngày 28/7/1929 là kết quả tất yếu của phong trào công nhân, là thắng lợi của đường lối công vận của Đảng ta và đáp ứng yêu cầu bức thiết của phong trào công nhân đang phát triển mạnh mẽ, đánh dấu sự trưởng thành về tổ chức của giai cấp công nhân Việt Nam.
Đồng chí Nguyễn Đức Cảnh và những cống hiến lịch sử thúc đẩy Cách mạng Việt Nam

Đồng chí Nguyễn Đức Cảnh và những cống hiến lịch sử thúc đẩy Cách mạng Việt Nam

Trở về Hà Nội từ Quảng Châu (Trung Quốc) sau khi đã nghiên cứu, tìm hiểu và gia nhập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, Nguyễn Đức Cảnh chính thức ly khai khỏi Nam Đồng Thư xã (lúc này đã chuyển thành Việt Nam Quốc dân Đảng) và hoạt động trong tổ chức Thanh niên Bắc Kỳ với việc bí mật tổ chức in ấn tài liệu tuyên truyền trong các nhà máy, hầm mỏ để giác ngộ quần chúng công nhân.
Di sản vượt thời gian của đồng chí Hoàng Quốc Việt

Di sản vượt thời gian của đồng chí Hoàng Quốc Việt

“Làm chủ không phải là khẩu hiệu suông. Làm chủ là phải làm chủ được sản xuất, làm chủ đời sống - cả chỗ ở, chỗ học, chỗ nghỉ… Đó là tư tưởng xuyên suốt của bác Hoàng Quốc Việt khi giữ cương vị đứng đầu Tổng Công đoàn Việt Nam” - ông Nguyễn Túc, nguyên thư ký riêng của đồng chí Hoàng Quốc Việt, khẳng định.
Vẹn nguyên tinh thần của lãnh tụ Nguyễn Đức Cảnh

Vẹn nguyên tinh thần của lãnh tụ Nguyễn Đức Cảnh

Trong tiến trình lịch sử cách mạng Việt Nam, giai cấp công nhân và báo chí cách mạng đã đóng vai trò then chốt trong việc thúc đẩy những chuyển biến sâu rộng của xã hội, đặc biệt là trong cuộc đấu tranh chống ách đô hộ của thực dân Pháp và quá trình giải phóng dân tộc. Đóng góp quan trọng trong công cuộc này không thể không nhắc đến đồng chí Nguyễn Đức Cảnh, một trong những lãnh tụ tiêu biểu của phong trào công nhân Việt Nam, đồng thời là người sáng lập và lãnh đạo tổ chức Công đoàn Việt Nam.
Công đoàn Việt Nam: 96 năm son sắt một sứ mệnh tiên phong

Công đoàn Việt Nam: 96 năm son sắt một sứ mệnh tiên phong

Trải qua 96 năm hình thành và phát triển, gắn liền với những chặng đường đấu tranh cách mạng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của dân tộc, Công đoàn Việt Nam luôn khẳng định vị thế là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân, là chỗ dựa tin cậy của người lao động và là cơ sở chính trị - xã hội vững chắc của Đảng và Nhà nước ta.
Xem thêm