| Trước làn sóng sáp nhập đơn vị hành chính cấp tỉnh đang được triển khai, bên cạnh kỳ vọng về tinh gọn bộ máy và thúc đẩy phát triển, nhiều người dân lại âm thầm lo sợ một điều khác: Hồn quê, ký ức và bản sắc văn hóa liệu có bị phai nhạt khi tên gọi, địa giới, thiết chế văn hóa thay đổi? Trong cuộc trao đổi với Tạp chí Lao động và Công đoàn, PGS.TS Bùi Hoài Sơn, Ủy viên chuyên trách Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội đã chỉ ra những nguy cơ hiện hữu của xu hướng “một màu văn hóa hành chính” và nhấn mạnh yêu cầu bắt buộc phải có đề án bảo tồn văn hóa đi kèm trong mọi quá trình sáp nhập, để đảm bảo mỗi vùng đất, mỗi cộng đồng vẫn giữ được linh hồn riêng giữa một bản đồ hành chính mới. |
Phóng viên: Thưa ông, khi bàn đến sáp nhập tỉnh, người dân thường lo lắng nhất điều gì về mặt văn hóa? Nỗi lo đó có cơ sở không?
PGS.TS Bùi Hoài Sơn: Khi nói đến sáp nhập tỉnh - một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước nhằm tinh gọn bộ máy, nâng cao hiệu quả quản lý, thúc đẩy phát triển thì điều người dân lo lắng không chỉ nằm ở việc thay đổi tên gọi, địa giới hay đơn vị hành chính. Mà sâu xa hơn, là một nỗi lo âm thầm nhưng day dứt: “Quê hương của tôi có còn được gọi tên không? Tập tục của làng tôi có còn được giữ gìn? Lễ hội cha ông để lại có còn được tổ chức? Và liệu con cháu chúng tôi có còn biết mình từ đâu mà lớn lên không?”
![]() |
| PGS.TS Bùi Hoài Sơn. Ảnh: NVCC. |
Nỗi lo ấy bắt nguồn từ một tâm lý rất thật, rất người: Lo mất đi ký ức, lo bị xóa mờ dấu vết trên bản đồ tâm hồn. Văn hóa không chỉ là di sản vật chất mà là không gian sống động của những giá trị, biểu tượng, phong tục, ngôn ngữ, kiến trúc, âm nhạc, tín ngưỡng... gắn liền với đời sống tinh thần của một cộng đồng trong suốt chiều dài lịch sử. Khi tỉnh bị sáp nhập, thì cái tên gọi thân quen vốn là niềm tự hào nhiều đời như Thái Bình, Hòa Bình, Hải Dương… - nay có thể bị thay thế bằng một danh xưng mới, khiến nhiều người cảm thấy hụt hẫng, như đánh mất một phần căn tính của chính mình.
Tôi cho rằng, nỗi lo đó hoàn toàn có cơ sở. Thực tế từ những cuộc sáp nhập trước đây cho thấy, nếu quá trình tổ chức lại địa giới hành chính không đi kèm với những chính sách bảo tồn văn hóa vùng miền một cách nghiêm túc, thì sự mai một của bản sắc là điều khó tránh khỏi. Có những lễ hội truyền thống không còn được tổ chức với quy mô như trước, có những địa phương mất dần phong tục đặc trưng, thậm chí các thiết chế văn hóa như nhà văn hóa, bảo tàng tỉnh, trung tâm văn hóa nghệ thuật… cũng bị dồn nén, rút gọn, khiến không gian sáng tạo văn hóa trở nên nghèo nàn.
Do đó, cần hiểu rằng: Văn hóa là linh hồn của vùng đất và bất kỳ sự thay đổi nào về hành chính cũng phải tính đến “mức độ chấn động” lên tâm thức cộng đồng. Nếu làm tốt, việc sáp nhập có thể là cơ hội để giao thoa, làm giàu thêm văn hóa địa phương. Nhưng nếu làm chưa tới, rất dễ dẫn đến cảm giác “bị hòa tan”, bị mất gốc. Khi đó, những giá trị quý báu vun đắp qua hàng thế kỷ sẽ tan biến một cách lặng lẽ mà hậu quả sẽ chỉ rõ sau nhiều năm nữa, khi chúng ta nhìn lại và không còn nhận ra chính vùng đất mình từng gọi là quê hương.
Phóng viên: Ông đánh giá thế nào về xu hướng “một màu văn hóa hành chính” sau các cuộc sáp nhập? Điều này có thể làm nhạt bản sắc địa phương không?
PGS.TS Bùi Hoài Sơn: Xu hướng “một màu văn hóa hành chính” là một thực trạng đang hiện hữu một cách âm thầm nhưng đáng lo ngại trong tiến trình sáp nhập các đơn vị hành chính ở nước ta. Nó xuất hiện khi tư duy quản lý theo lối đồng nhất, giản lược, cơ giới hóa được áp đặt lên các không gian văn hóa đa dạng và đặc thù. Khi đó, thay vì giữ gìn và phát huy tính đa dạng, đặc sắc của từng vùng miền, chúng ta lại vô tình “chuẩn hóa” văn hóa theo mô hình hành chính mới, từ tên gọi, lễ nghi đến các hoạt động biểu trưng. Đây là nguy cơ lớn làm mờ nhòe những sắc thái riêng, khiến văn hóa địa phương dần trở nên nhạt nhòa, không còn dấu ấn riêng biệt.
Chúng ta đã chứng kiến một số hiện tượng cụ thể. Sau sáp nhập, các trung tâm văn hóa cấp tỉnh cũ bị hợp nhất, nhiều phòng truyền thống không còn hoạt động độc lập, các lễ hội quy mô vừa và nhỏ từng là niềm tự hào của mỗi vùng đất không còn được ngân sách ưu tiên. Thậm chí, một số tên gọi địa danh lâu đời - vốn gắn với những ký ức lịch sử sâu sắc bị xóa bỏ hoặc thay đổi, khiến cộng đồng cư dân mất đi sự kết nối tinh thần với cội nguồn văn hóa của chính mình.
Một tỉnh có thể bao gồm nhiều tiểu vùng văn hóa - mỗi vùng có phong tục, lối sống, kiến trúc, ẩm thực, hệ thống tín ngưỡng khác nhau. Nhưng khi toàn bộ được điều tiết theo một trung tâm mới - thường là nơi có sức mạnh hành chính lớn hơn thì xu hướng “một màu” trở nên khó tránh khỏi nếu thiếu cơ chế bảo vệ sự đa dạng. Điều này sẽ dẫn đến sự thu hẹp không gian biểu đạt văn hóa của các cộng đồng nhỏ hơn, lâu dần khiến người dân mất đi cảm giác thuộc về, mất đi động lực tham gia vào các hoạt động bảo tồn văn hóa địa phương.
Vì thế, tôi cho rằng nếu không có sự cảnh tỉnh và điều chỉnh kịp thời trong chính sách văn hóa để chống lại “bóng đè” hành chính lên đời sống văn hóa thì nguy cơ đồng hóa, đánh mất bản sắc là điều có thật. Văn hóa không thể chỉ bị quản lý như một đầu mục công việc hành chính. Văn hóa cần được thừa nhận là sự sống của cộng đồng - nơi cái riêng phải được tôn trọng, cái chung cần được hài hòa và mọi sắc thái đều có quyền tồn tại trong tổng thể đa dạng của một quốc gia thống nhất.
Phóng viên: Ở góc độ chính sách, làm thế nào để các địa phương sau sáp nhập vẫn có cơ chế bảo tồn và phát huy bản sắc riêng, thay vì bị “phủ sóng” bởi trung tâm mới?
PGS.TS Bùi Hoài Sơn: Ở góc độ chính sách, việc bảo đảm rằng các địa phương sau sáp nhập vẫn có cơ chế bảo tồn và phát huy bản sắc riêng là bài toán không dễ, nhưng hoàn toàn khả thi nếu chúng ta có một tư duy thiết kế thể chế văn hóa thật cẩn trọng, linh hoạt và mang tính nhân văn. Điều cần làm đầu tiên là chuyển từ tư duy “trung tâm - ngoại vi” sang mô hình “đa trung tâm văn hóa” trong cùng một đơn vị hành chính mới. Nghĩa là, dù sáp nhập về mặt hành chính, nhưng mỗi vùng - từng là một đơn vị độc lập trước đây - vẫn phải có cơ chế để được phát huy đặc trưng văn hóa của mình như một tiểu vùng có tính tự trị văn hóa.
![]() |
Nghệ nhân múa rối cạn lộc Hòe ở xã Thượng Phúc. Ảnh: Văn Công. |
Cụ thể, Nhà nước cần ban hành quy định yêu cầu xây dựng “Kế hoạch bảo tồn và phát huy di sản văn hóa vùng sáp nhập” như một phần không thể thiếu của bất kỳ đề án sáp nhập hành chính nào. Trong đó, mỗi vùng phải được đánh giá tài nguyên văn hóa một cách khoa học, xác định những di sản trọng điểm cần ưu tiên bảo vệ và thiết lập hệ thống thiết chế văn hóa phù hợp như nhà văn hóa, trung tâm di sản, không gian sinh hoạt cộng đồng được duy trì bằng ngân sách riêng biệt.
Mặt khác, các cơ quan văn hóa tại trung tâm mới cần có cơ chế phối hợp và lắng nghe các cộng đồng địa phương, trao quyền cho họ trong việc quản lý, tổ chức lễ hội, phục dựng truyền thống và quảng bá bản sắc. Những người làm văn hóa tại vùng cũ cần được giữ vai trò chủ đạo, không bị điều chuyển hay gộp lại một cách cơ học.
Ngoài ra, cần thiết lập Quỹ hỗ trợ sáng tạo và bảo tồn văn hóa vùng sáp nhập, được tài trợ từ ngân sách nhà nước và xã hội hóa, để khuyến khích các dự án nghiên cứu, xuất bản, trình diễn, số hóa di sản địa phương. Vai trò của giới trí thức, văn nghệ sĩ, nghệ nhân vùng sáp nhập cũng cần được phát huy như “người giữ lửa” cho văn hóa địa phương.
Nói một cách ngắn gọn, bảo tồn bản sắc sau sáp nhập không chỉ là việc của các cơ quan hành chính mà là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị và cộng đồng. Và trên hết, chính sách phải thể hiện được sự trân trọng cái riêng trong cái chung không để những hạt giống văn hóa đặc sắc bị lạc lõng giữa “cánh đồng hành chính” được quy hoạch bằng bản đồ, mà thiếu mất tâm hồn.
Phóng viên: Có người nói: “Văn hóa thì không thể sáp nhập”. Ông có đồng tình không? Và nếu đồng tình, thì chính sách cần làm gì để điều đó trở thành hiện thực?
PGS.TS Bùi Hoài Sơn: Tôi hoàn toàn đồng tình với quan điểm “Văn hóa thì không thể sáp nhập”. Đó không phải là một câu nói văn vẻ hay mang tính khẩu hiệu, mà là một tuyên bố sâu sắc về bản chất của văn hóa rằng nó không tuân theo các ranh giới hành chính, không bị giới hạn bởi bản đồ hay quyết định hành chính. Văn hóa là kết tinh của lịch sử, là kết quả của quá trình hình thành lâu dài của một cộng đồng trong mối quan hệ với thiên nhiên, với lịch sử, với những ký ức và biểu tượng chung. Nó tồn tại trong ngôn ngữ, trong nếp sống, trong lễ nghi, trong cả ánh nhìn và nhịp thở của mỗi con người thuộc về vùng đất ấy.
Chính vì thế, khi nói đến việc sáp nhập đơn vị hành chính, chúng ta có thể gộp lại các cơ quan công quyền, tinh gọn bộ máy, sắp xếp lại biên giới địa lý nhưng tuyệt đối không được áp đặt một cách máy móc, hành chính hóa đời sống văn hóa. Nếu thiếu cơ chế bảo vệ những gì tinh tế, riêng biệt, thầm lặng mà sâu sắc của các cộng đồng, thì sẽ xảy ra một cuộc “xâm lấn văn hóa” không tuyên bố, nhưng để lại hậu quả lâu dài.
Để lời nói “văn hóa thì không thể sáp nhập” trở thành hiện thực, chính sách cần được thiết kế dựa trên nguyên lý: Không làm tổn thương ký ức cộng đồng. Cần quy định bắt buộc rằng, trong bất kỳ đề án sáp nhập hành chính nào cũng phải có một phần riêng đánh giá tác động văn hóa và kèm theo đó là một đề án bảo tồn văn hóa địa phương được thực hiện với sự tham gia của người dân, nghệ nhân, nhà nghiên cứu địa phương.
Cần luật hóa cơ chế bảo vệ tên gọi địa danh truyền thống ví dụ như giữ nguyên tên cũ trong hệ thống địa danh phụ hay đặt tên các tuyến phố, khu dân cư theo tên các địa phương bị sáp nhập. Đồng thời, cần xây dựng “hồ sơ ký ức văn hóa vùng” cho từng khu vực trước khi sáp nhập bao gồm tư liệu hóa lịch sử, lễ hội, kiến trúc, ngôn ngữ, tập tục để lưu giữ, truyền dạy và tôn vinh về sau.
Một quốc gia lớn mạnh là một quốc gia biết tôn trọng những gì nhỏ bé nhưng gắn với căn tính. Và một thể chế vững bền là thể chế không để một vùng đất nào, một cộng đồng nào, một ký ức nào bị chìm lặng khi bản đồ hành chính thay đổi.
Phóng viên: Với riêng vùng xứ Đoài - nơi từng sáp nhập về Hà Nội, ông nhìn nhận sự thay đổi văn hóa ở đây như thế nào sau 17 năm?
PGS.TS Bùi Hoài Sơn: Vùng xứ Đoài - nơi hội tụ hồn cốt của đất tổ Sơn Tây, Ba Vì, Phúc Thọ, Quốc Oai, Thạch Thất… là một biểu tượng sinh động cho câu chuyện văn hóa trong sáp nhập hành chính. Sau 17 năm kể từ khi Hà Tây được sáp nhập về Hà Nội, chúng ta có thể nhìn thấy cả hai mặt của vấn đề: Sự phát triển và hiện đại hóa rõ nét, nhưng đồng thời cũng là sự giằng xé giữa giữ gìn bản sắc và nguy cơ bị hòa tan trong một chỉnh thể hành chính lớn hơn.
Về mặt tích cực, xứ Đoài đã nhận được nhiều đầu tư hơn cho hạ tầng, cho giáo dục và cả cho các thiết chế văn hóa. Một số lễ hội như hội Gióng ở Sóc Sơn - Gia Lâm và hội Chùa Thầy, lễ hội đền Và, đình Tây Đằng vẫn được tổ chức và ghi nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Nhiều không gian văn hóa, từ làng cổ Đường Lâm đến các làng nghề như Vạn Phúc đã được quảng bá nhiều hơn. Nhưng cũng phải thẳng thắn nhìn nhận rằng, có những vùng quê xứ Đoài ngày xưa vốn rất nổi tiếng với lối sống trầm mặc, tinh thần làng xã, nếp nhà cổ, nay dần bị đô thị hóa, bị cuốn theo tốc độ phát triển hiện đại và mất đi phần nào “hơi thở cổ kính” của một vùng đất từng mang đậm đặc giá trị văn hóa.
Tôi cho rằng bài học từ Xứ Đoài là rất rõ: Nếu không có chiến lược văn hóa đi kèm với phát triển đô thị thì bản sắc sẽ mai một dần trong im lặng. Nhưng cũng từ chính xứ Đoài, chúng ta thấy được sức sống bền bỉ của văn hóa: Người dân vẫn gìn giữ các làn điệu ca trù, hát dô, hát thờ, vẫn thắp hương ở những ngôi miếu cổ, vẫn tổ chức lễ hội đúng ngày rằm… Văn hóa có thể bị xáo trộn, nhưng không dễ gì bị xóa nhòa, nếu được yêu thương và gìn giữ từ chính cộng đồng.
Phóng viên: Có cần một cam kết từ phía Nhà nước, rằng trong mọi sáp nhập hành chính, phải đi kèm với đề án bảo tồn văn hóa địa phương? Liệu điều này có khả thi về mặt pháp lý và thực tiễn?
PGS.TS Bùi Hoài Sơn: Tôi cho rằng, một cam kết rõ ràng và bắt buộc từ phía Nhà nước rằng mọi cuộc sáp nhập hành chính phải đi kèm với một đề án bảo tồn văn hóa địa phương là điều rất cần thiết và hơn thế nữa, phải được thể chế hóa. Đây không chỉ là một đòi hỏi về mặt đạo lý, mà là yêu cầu chính trị - pháp lý để đảm bảo sự phát triển hài hòa giữa thể chế hành chính và đời sống cộng đồng.
![]() |
| Văn hóa dân tộc Chăm tỉnh Ninh Thuận. Ảnh: VGP. |
Về mặt pháp lý, hoàn toàn có thể lồng ghép yêu cầu này vào Luật Tổ chức chính quyền địa phương, Luật Di sản văn hóa hoặc các Nghị định hướng dẫn về sắp xếp đơn vị hành chính. Có thể quy định rằng: Trước khi phê duyệt sáp nhập, các địa phương phải trình kèm một bản đánh giá tác động văn hóa và kế hoạch hành động cụ thể để bảo tồn các yếu tố văn hóa vùng bị ảnh hưởng. Đề án đó phải có sự tham gia của người dân, nhà nghiên cứu và cộng đồng địa phương bảo đảm nguyên tắc dân chủ và thực tiễn.
Về mặt thực tiễn, chúng ta hoàn toàn có đủ công cụ và nguồn lực để thực hiện điều đó nếu có quyết tâm chính trị. Có thể trích một phần ngân sách từ chi phí tiết kiệm được nhờ sáp nhập để đầu tư cho việc bảo tồn văn hóa địa phương. Có thể thành lập các Ban Văn hóa vùng sáp nhập để giám sát, tổ chức và phục hồi lễ hội, làng nghề, di tích. Và quan trọng nhất là, nếu Nhà nước thể hiện cam kết mạnh mẽ, thì người dân sẽ đồng hành, thậm chí chủ động tham gia gìn giữ văn hóa, vì họ cảm thấy được tôn trọng và được bảo vệ.
Một quyết định hành chính có thể làm thay đổi bản đồ, nhưng chỉ khi đi kèm với quyết sách văn hóa, nó mới tạo nên sự đồng thuận xã hội. Khi ấy, chúng ta không chỉ sáp nhập tỉnh mà còn kiến tạo một cộng đồng hành chính mới với linh hồn văn hóa phong phú, đa dạng và trường tồn.
Phóng viên: Cuối cùng, ông có kiến nghị gì để đảm bảo rằng: Quá trình sáp nhập tỉnh sẽ không kéo theo một “cuộc sáp nhập lặng lẽ” của hồn quê, di sản và ký ức cộng đồng?
PGS.TS Bùi Hoài Sơn: Để tránh một “cuộc sáp nhập lặng lẽ” của hồn quê, di sản và ký ức cộng đồng - điều thậm chí còn nghiêm trọng hơn cả sự thay đổi về mặt địa lý - tôi xin đưa ra một số kiến nghị rất cụ thể, với tinh thần đặt văn hóa vào vị trí trung tâm của mọi quá trình sáp nhập hành chính.
Thứ nhất, cần thiết lập một nguyên tắc cứng: Mỗi đề án sáp nhập tỉnh bắt buộc phải có phần đánh giá và kế hoạch bảo tồn văn hóa kèm theo như một cấu phần không thể tách rời. Việc này không chỉ là hành động kỹ thuật mà là tuyên ngôn chính trị cho thấy Nhà nước trân trọng giá trị cộng đồng và đặt niềm tin vào văn hóa như một nền tảng phát triển.
Thứ hai, nên thành lập các “Trung tâm ký ức vùng” là nơi lưu giữ tư liệu lịch sử, văn hóa, nghệ thuật, phong tục… của các vùng bị sáp nhập. Đây sẽ là “kho trí nhớ tập thể”, là nơi để các thế hệ sau biết được mình đến từ đâu và để các thế hệ hiện tại cảm thấy không bị quên lãng.
Thứ ba, cần thúc đẩy truyền thông và giáo dục bản sắc địa phương trong trường học, trên báo chí, mạng xã hội để văn hóa vùng miền không chỉ còn trong lễ hội mà còn sống trong từng bài giảng, từng bức ảnh, từng câu chuyện được kể lại mỗi ngày.
Cuối cùng và quan trọng nhất là cần một thái độ chính trị đúng đắn: Không xem văn hóa là thứ đi sau, mà là động lực dẫn dắt. Đừng để việc sáp nhập hành chính - vốn là sự gộp lại về mặt thể chế - vô tình trở thành sự xóa nhòa về tâm hồn. Văn hóa không thể bị lặng lẽ chìm xuống chỉ vì không được nhắc tên trong các văn bản hành chính. Nó cần được vang lên bằng lễ hội, bằng tiếng trống đình, bằng câu hát ru và cả bằng những chính sách cụ thể, rõ ràng, quyết liệt.
Và chỉ khi làm được điều đó, chúng ta mới có thể nói rằng: Cuộc sáp nhập này không chỉ là hành động cải tổ bộ máy, mà còn là một bước tiến văn minh - nơi phát triển đi đôi với gìn giữ, nơi hiện đại không đối lập với bản sắc và nơi mỗi hồn quê đều có chỗ đứng xứng đáng trong trái tim đất nước.
Phóng viên: Xin trân trọng cảm ơn ông!
Đọc nhiều
Tin mới hơn
Không thể phủ nhận thành tựu chính sách dân tộc ở Tây Bắc
Kỳ 5: Nghị quyết chỉ thật sự là “ngọn đuốc” khi chạm đến trái tim Nhân dân
Kỳ 4: Khát vọng Việt Nam hùng cường trong tầm nhìn toàn cầu
Tin tức khác
Kỳ 2: Dấu ấn tầm nhìn chiến lược của Tổng Bí thư Tô Lâm trên hành trình kiến tạo Quốc gia số
Kỳ 5: Quốc hội không chỉ làm luật mà phải kiến tạo thể chế để dẫn dắt phát triển
Kỳ 3: Xây dựng con người, bồi đắp văn hóa: Đảng nói đi đôi với làm
Kỳ 1: Từ tư tưởng Mác – Lênin, Hồ Chí Minh đến Nghị quyết 57-NQ/TW: Dấu ấn mới trên con đường vươn mình
Kỳ 2: Hai trụ cột xây “ngôi nhà năng lượng mới” cho đất nước


