Nhu cầu đại diện bảo vệ của lao động trong khu vực phi chính thức ở Việt Nam
Nghiên cứu

Nhu cầu đại diện bảo vệ của lao động trong khu vực phi chính thức ở Việt Nam

TS. VŨ MINH TIẾN - Viện trưởng Viện Công nhân và Công đoàn
Khu vực phi chính thức bao gồm nền kinh tế phi chính thức và việc làm phi chính thức. Đây là khu vực hoạt động của tất cả các cơ sở sản xuất, kinh doanh (SXKD) không đăng ký kinh doanh với cơ quan quản lý Nhà nước (không có giấy phép kinh doanh), không có tư cách pháp nhân, thực hiện SXKD ít nhất một hoặc một vài sản phẩm và dịch vụ để bán, cung cấp hoặc trao đổi. Nghị quyết số 02-NQ/TW ngày 12/6/2021 của Bộ Chính trị về đổi mới tổ chức và hoạt động của Công đoàn Việt Nam trong tình hình mới đã xác định một trong những nhiệm vụ, giải pháp là “có mô hình phù hợp thu hút, tập hợp, bảo vệ người lao động ở khu vực phi chính thức”.
Nhu cầu đại diện bảo vệ của lao động trong khu vực phi chính thức ở Việt Nam
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đã đề xuất Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội nghiên cứu, đánh giá thực trạng việc làm, điều kiện làm việc... của tài xế công nghệ để hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội. Ảnh: PV

Những căn cứ khách quan

Theo số liệu năm 2020 của Tổng cục Thống kê, tỷ trọng lao động làm việc trong khu vực phi chính thức ở nước ta chiếm khoảng 25,4% trong tổng số 54,6 triệu người đang làm việc trong nền kinh tế. Họ là những NLĐ thuộc nhóm lao động dễ tổn thương, cần phải được đại diện và bảo vệ: việc làm bấp bênh, thiếu ổn định, không có hợp đồng lao động hoặc chỉ là hợp đồng thỏa thuận miệng; thu nhập thấp, thời gian làm việc dài; cơ sở SXKD trong khu vực này thường có quy mô rất nhỏ hoặc siêu nhỏ, không đăng ký kinh doanh, không đóng Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm y tế (BHXH, BHYT), không chi trả các chế độ phụ cấp và các khoản phúc lợi xã hội khác cho NLĐ… Đặc biệt, trong bối cảnh diễn ra đại dịch Covid-19 hiện nay cũng như thời gian tới, dự báo lao động trong khu vực phi chính thức có xu hướng tăng lên và tiếp tục đặt ra rất nhiều vấn đề về lao động nói chung và vấn đề quyền đại diện bảo vệ của NLĐ trong khu vực phi chính thức nói riêng.

Chính những khó khăn trong việc làm, cuộc sống và khả năng tự bảo vệ, tự đàm phán, thương lượng và giải quyết các vấn đề trong việc làm, cuộc sống là những căn cứ khách quan thúc đẩy nhu cầu đại diện bảo vệ quyền lợi của lao động trong khu vực phi chính thức:

Việc làm bấp bênh, thiếu ổn định và bảo đảm. Lao động trong khu vực phi chính thức gặp rất nhiều khó khăn trong việc làm, cả ở nông thôn lẫn thành thị, đặc biệt là nhóm di cư do sinh kế không bền vững. Hầu hết NLĐ đều trải qua những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện công việc. Tùy theo từng vị thế việc làm, NLĐ gặp những khó khăn khác nhau.

Độ bao phủ của các chính sách an sinh xã hội trong khu vực phi chính thức là rất thấp và thấp hơn so với mặt bằng chung khá nhiều. Theo kết quả khảo sát năm 2019, tỷ lệ có tham gia các loại bảo hiểm ở nhóm lao động trong khu vực phi chính thức chỉ là 45,3%, nhưng chủ yếu là BHYT (40,7%), trong đó đã có tới 19,3% thuộc hộ gia đình nghèo và cận nghèo thường được cấp BHYT miễn phí theo quy định của Chính phủ. Có một số nhóm có tỷ lệ BHYT khá hơn là: nhóm giúp việc gia đình 51,4% (một số do gia chủ mua cho), xây dựng (51,3%), bốc xếp tại chợ (mua theo hộ gia đình ở nông thôn)… Tỷ lệ lao động phi chính thức nữ tham gia BHYT cao hơn so với nam (gấp 1,5 lần).

Nhu cầu đại diện bảo vệ của lao động trong khu vực phi chính thức ở Việt Nam
Lao động phi chính thức thường không có hợp đồng lao động bằng văn bản mà chỉ thỏa thuận miệng với chủ sử dụng lao động. Trong ảnh: Công nhân bốc vác tại chợ Long biên (TP. Hà Nội). Ảnh: THÀNH NAM.

Lao động trong khu vực phi chính thức gặp khó khăn trong cuộc sống cả ở nông thôn lẫn thành thị, đặc biệt là nhóm di cư do sinh kế không bền vững, điều kiện sống thấp kém và thiếu sự quan tâm của các cấp chính quyền, đoàn thể. Ở nông thôn, phần lớn lao động trong khu vực phi chính thức là những người có mức sống thấp do sinh kế thiếu bền vững. Nhiều người trong số họ thuộc các gia đình chính sách, các hộ nghèo và cận nghèo. Ngoài ra, với lao động phi chính thức di cư khó khăn chung và lớn nhất của NLĐ từ môi trường làm việc là “bị phân biệt đối xử” đến từ người dân địa phương, chính quyền địa phương và bị phân biệt đối xử cả trong chính sách bởi vì họ là người di cư không có hộ khẩu thường trú tại nơi đến. Trong cuộc sống tại nơi cư trú hiện nay, lao động phi chính thức chủ yếu đánh giá là thiếu sự quan tâm của chính quyền, đoàn thể và xã hội (15,6%). Tỷ lệ này khá cao ở các nhóm như: lao động bốc xếp tại cảng (31,3%) và xây dựng tự do (20%).

Bên cạnh đó, họ còn gặp nhiều vấn đề trong việc làm ăn, từ các vấn đề thông thường đến cả các vấn đề có dấu hiệu “bảo kê” hoặc “xã hội đen”…

Tuyệt đại đa số lao động trong khu vực phi chính thức đều gặp khó khăn cả về vật chất, lẫn tinh thần; trong giai đoạn khủng hoảng họ rơi ngay vào tình trạng túng quẫn, nhất là trong và sau các đợt dịch Coivd-19 bùng phát. Tình trạng ngừng hoạt động của các cơ sở SXKD dẫn đến một bộ phận lao động khu vực phi chính thức bị mất việc làm hoặc giảm thu nhập, làm cho cuộc sống của họ đã khó khăn lại càng trở nên bấp bênh thêm. Đáng lưu ý, một số lao động mất hoàn toàn thu nhập do bị cho thôi việc phải cắt giảm các khoản chi tiêu hoặc nhờ nguồn tiền hỗ trợ của Nhà nước hoặc nguồn tiết kiệm, nhưng cũng chỉ là giải pháp tạm thời. Những khó khăn trên dẫn đến mâu thuẫn gia đình và tác động tiêu cực đến cuộc sống của NLĐ.

Nhu cầu đại diện bảo vệ của lao động trong khu vực phi chính thức ở Việt Nam
Lao động phi chính thức cần gia nhập nghiệp đoàn để được bảo vệ quyền lợi. Trong ảnh: Tặng thẻ BHYT cho đoàn viên nghiệp đoàn xe ôm. Ảnh: HỒNG ĐÀO.

Nhu cầu đại diện của NLĐ từ kết quả điều tra thực tế

Xuất phát từ những khó khăn, trở ngại trong việc làm và cuộc sống, song đang thiếu tiếng nói đại diện và bảo vệ, mà bản thân những NLĐ trong khu vực phi chính thức tồn tại nhu cầu khách quan là liên kết lại với nhau để tạo sức mạnh, để hình thành các tổ chức có tính chất nghề nghiệp đại diện bảo vệ quyền lợi cho mình. Trong đó, nghiệp đoàn là một ví dụ điển hình - tổ chức thuộc hệ thống Công đoàn Việt Nam đã được thành lập, với số lượng đoàn viên và độ bao phủ còn khá hạn hẹp.

Ngoài việc tham gia vào các tổ chức, các hội nhóm không có tính chất nghề nghiệp, thì hầu hết các nhóm lao động này thường có những kết nối, liên kết có tính chất nghề nghiệp, trong công việc với nhau. Các mối liên kết này mang tính tự nguyện và đã hỗ trợ, giúp đỡ giải quyết được một số vấn đề nhỏ của thành viên. Tuy nhiên, mức độ liên kết và khả năng liên kết mang tính tự phát nên cũng gặp nhiều hạn chế. Phần lớn NLĐ khu vực phi chính thức không có tổ chức đại diện chính thức bảo vệ quyền lợi, chỉ gắn kết với nhau ở quy mô nhỏ, và cách thức tổ chức hoạt động còn tự phát.

Phần lớn NLĐ đều có các hình thức kết nối, liên kết với nhau, nhưng với tính chất liên kết nghề nghiệp không nhiều. Kết quả khảo sát cho thấy: có 26,7% lao động phi chính thức hiện nay đang tham gia vào ít nhất một nhóm có tính chất “kết nối” nghề nghiệp. Ở đây, các nhóm này được hiểu là các nhóm có nhiều mối kết nối mang tính liên kết nghề nghiệp thấp và không chính thức.

Các nhóm liên kết mang tính tự nguyện và đã hỗ trợ được cho các thành viên một số vướng mắc nhỏ trong công việc, cuộc sống. Khi nói về chất lượng hoạt động của các nhóm liên kết, về cơ bản lao động phi chính thức có nhiều đánh giá khá tích cực về các hội, nhóm, câu lạc bộ có tính chất nghề nghiệp (hầu hết là các nhóm không chính thức) mà họ đang tham gia. 67,5% lao động phi chính thức đánh giá chất lượng hoạt động của các nhóm mình đang tham gia là tốt. Trong đó đặc biệt cao là các nhóm bốc xếp tại cảng (100%), xe ôm công nghệ (75%); khá cao là nhóm xây dựng (66,7%) và bốc xếp nông sản tại chợ (62,5%). Ngược lại, lao động nhóm giúp việc gia đình đánh giá các câu lạc bộ, hội nhóm mà họ đang tham gia chất lượng hoạt động bình thường.

Nhu cầu đại diện bảo vệ của lao động trong khu vực phi chính thức ở Việt Nam
Cán bộ BHXH tỉnh Bắc Ninh tuyên truyền chính sách BHXH tự nguyện cho NLĐ tại “Ngày hội Thanh niên công nhân năm 2022”. Ảnh: LÊ ĐẠI.

Nhu cầu và thái độ tham gia liên kết nghề nghiệp của NLĐ là khá cao. Khi gặp khó khăn, hoạn nạn trong cuộc sống, công việc thì lao động phi chính thức nghĩ đến đầu tiên và nhiều nhất là người thân gia đình (50%), tiếp đến là đồng hương, bạn bè (36,7%), nhờ nhóm cùng làm việc, đồng nghiệp (27,3%). Tuy vậy, đi sâu vào từng nhóm, có sự phân hóa rõ rệt.

Sự cần thiết có các nhóm liên kết theo ý kiến của NLĐ. Có 50% ý kiến lao động phi chính thức trả lời “có cần tập hợp” nhau lại thành các tổ chức có tính chất nghề nghiệp, mang tính tập thể, chia sẻ, giao lưu với nhau và đại diện bảo vệ quyền lợi nghề nghiệp cho nhóm và 32% trả lời “không cần”.

Kết quả điều tra cho thấy đa phần NLĐ vẫn chưa tin tưởng và nhận thức hết các lợi ích của việc tham gia các tổ chức đại diện nghề nghiệp. Song, phần đông NLĐ cũng nói rằng nếu có lợi ích thiết thực thì họ sẽ tham gia. Vì vậy, để thúc đẩy việc tham gia tích cực của NLĐ vào các tổ chức đại diện thì công tác tuyên truyền về chức năng và lợi ích các tổ chức này là vô cùng quan trọng.

Thủ tướng: Nhu cầu nhà ở của công nhân lao động vẫn rất cấp bách Thủ tướng: Nhu cầu nhà ở của công nhân lao động vẫn rất cấp bách

Cả nước đã hoàn thành gần 7,8 triệu m2 nhà ở xã hội, nhưng theo Thủ tướng Phạm Minh Chính, nhu cầu nhà ở của ...

Bảo đảm quyền và lợi ích của lao động Việt Nam ở nước ngoài Bảo đảm quyền và lợi ích của lao động Việt Nam ở nước ngoài

Hoạt động đưa người lao động (NLĐ) và chuyên gia Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài đã có bước phát triển mạnh mẽ ...

Tầm quan trọng của nhận thức trong xây dựng văn hóa an toàn lao động Tầm quan trọng của nhận thức trong xây dựng văn hóa an toàn lao động

Nếu văn hóa an toàn được xây dựng một cách bài bản, nghiêm túc cho doanh nghiệp và cho người lao động thì con người ...

Tin mới hơn

Lý luận gắn với thực tiễn theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Lý luận gắn với thực tiễn theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh luôn rất coi trọng lý luận, việc học tập lý luận của cán bộ, đảng viên và toàn thể nhân dân.
Tăng cường khối đoàn kết xây dựng Đảng vững mạnh theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh

Tăng cường khối đoàn kết xây dựng Đảng vững mạnh theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh

Đoàn kết, gắn bó chặt chẽ nhằm phát huy sức mạnh của cộng đồng để chống thiên tai và ngoại xâm là truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam. Đến Hồ Chí Minh thì “Đại đoàn kết được xây dựng trên cả một lý luận chứ không còn đơn thuần là tình cảm tự nhiên của người trong một nước phải thương nhau cùng” , nghĩa là, trong tư duy lý luận của Hồ Chí Minh, tư tưởng đại đoàn kết được hình thành và phát triển trên một nền tảng lý luận khoa học và thực tiễn hết sức phong phú, sâu sắc.
Phát huy nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách trong công tác xây dựng Đảng

Phát huy nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách trong công tác xây dựng Đảng

Học tập và vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, từ khi thành lập Đảng đến nay Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng nguyên tắc tập trung dân chủ, coi đó là nguyên tắc số một trong xây dựng Đảng. Trong điều kiện Đảng cầm quyền ở nước ta, biểu hiện cụ thể của nguyên tắc đó chính là nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Đây vừa là một nguyên tắc trong hoạt động lãnh đạo của Đảng, vừa là một nội dung biểu hiện của nguyên tắc tập trung dân chủ. Nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách góp phần xây dựng Đảng vững mạnh trên cả ba mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức.

Tin tức khác

Những giá trị lý luận về phong trào cách mạng và Đảng Cộng sản ở Việt Nam của đồng chí Nguyễn Đức Cảnh

Những giá trị lý luận về phong trào cách mạng và Đảng Cộng sản ở Việt Nam của đồng chí Nguyễn Đức Cảnh

Nguyễn Đức Cảnh sinh ra và lớn lên trong một gia đình nhà nho nghèo, được người cha dạy chữ, được tiếp thu truyền thống yêu nước của quê hương, gia đình, dòng họ; lớn lên trong bối cảnh đất nước lầm than, bị ngoại bang đô hộ, lại sớm được đọc và chịu ảnh hưởng của một số tác phẩm, bài viết của Nguyễn Ái Quốc, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh - những nhà yêu nước Việt Nam.
Vai trò của đồng chí Nguyễn Đức Cảnh trong việc sáng lập và lãnh đạo Tổng Công hội Đỏ Bắc Kỳ

Vai trò của đồng chí Nguyễn Đức Cảnh trong việc sáng lập và lãnh đạo Tổng Công hội Đỏ Bắc Kỳ

Tổng Công hội Đỏ Bắc Kỳ, tổ chức tiền thân của Tổng LĐLĐ Việt Nam ra đời ngày 28/7/1929 là kết quả tất yếu của phong trào công nhân, là thắng lợi của đường lối công vận của Đảng ta và đáp ứng yêu cầu bức thiết của phong trào công nhân đang phát triển mạnh mẽ, đánh dấu sự trưởng thành về tổ chức của giai cấp công nhân Việt Nam.
Đồng chí Nguyễn Đức Cảnh và những cống hiến lịch sử thúc đẩy Cách mạng Việt Nam

Đồng chí Nguyễn Đức Cảnh và những cống hiến lịch sử thúc đẩy Cách mạng Việt Nam

Trở về Hà Nội từ Quảng Châu (Trung Quốc) sau khi đã nghiên cứu, tìm hiểu và gia nhập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, Nguyễn Đức Cảnh chính thức ly khai khỏi Nam Đồng Thư xã (lúc này đã chuyển thành Việt Nam Quốc dân Đảng) và hoạt động trong tổ chức Thanh niên Bắc Kỳ với việc bí mật tổ chức in ấn tài liệu tuyên truyền trong các nhà máy, hầm mỏ để giác ngộ quần chúng công nhân.
Di sản vượt thời gian của đồng chí Hoàng Quốc Việt

Di sản vượt thời gian của đồng chí Hoàng Quốc Việt

“Làm chủ không phải là khẩu hiệu suông. Làm chủ là phải làm chủ được sản xuất, làm chủ đời sống - cả chỗ ở, chỗ học, chỗ nghỉ… Đó là tư tưởng xuyên suốt của bác Hoàng Quốc Việt khi giữ cương vị đứng đầu Tổng Công đoàn Việt Nam” - ông Nguyễn Túc, nguyên thư ký riêng của đồng chí Hoàng Quốc Việt, khẳng định.
Vẹn nguyên tinh thần của lãnh tụ Nguyễn Đức Cảnh

Vẹn nguyên tinh thần của lãnh tụ Nguyễn Đức Cảnh

Trong tiến trình lịch sử cách mạng Việt Nam, giai cấp công nhân và báo chí cách mạng đã đóng vai trò then chốt trong việc thúc đẩy những chuyển biến sâu rộng của xã hội, đặc biệt là trong cuộc đấu tranh chống ách đô hộ của thực dân Pháp và quá trình giải phóng dân tộc. Đóng góp quan trọng trong công cuộc này không thể không nhắc đến đồng chí Nguyễn Đức Cảnh, một trong những lãnh tụ tiêu biểu của phong trào công nhân Việt Nam, đồng thời là người sáng lập và lãnh đạo tổ chức Công đoàn Việt Nam.
Công đoàn Việt Nam: 96 năm son sắt một sứ mệnh tiên phong

Công đoàn Việt Nam: 96 năm son sắt một sứ mệnh tiên phong

Trải qua 96 năm hình thành và phát triển, gắn liền với những chặng đường đấu tranh cách mạng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của dân tộc, Công đoàn Việt Nam luôn khẳng định vị thế là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân, là chỗ dựa tin cậy của người lao động và là cơ sở chính trị - xã hội vững chắc của Đảng và Nhà nước ta.
Xem thêm