Thực trạng tiền lương, thu nhập, đời sống của người lao động Việt Nam
Nghiên cứu

Thực trạng tiền lương, thu nhập, đời sống của người lao động Việt Nam

PGS. TS. Vũ Quang Thọ
Tiền lương là điều kiện vật chất để NLĐ sống và hành động. Điều kiện vật chất ngày càng đầy đủ, dư dả sẽ càng giải phóng con người khỏi những lo toan thường nhật. Thị trường lao động ngày càng phát triển, đời sống con người ngày càng lụy vào tiền lương nhiều hơn, và do đó, người ta càng chăm chú tìm những cơ sở sản xuất kinh doanh (SXKD) có thể lo được các mức lương khả dĩ hơn.
Thực trạng tiền lương, thu nhập, đời sống của người lao động Việt Nam
Hiện có tình trạng một số doanh nghiệp “lập lờ” giữa mức lương tối thiểu và lương bình quân của doanh nghiệp, khiến người lao động bị thiệt thòi. Ảnh minh họa.

1. Vai trò của tiền lương, các yếu tố hình thành mức lương, thu nhập của NLĐ

Trong các doanh nghiệp SXKD, loại công việc nào, những cơ sở kinh doanh nào tạo ra mức lương và thu nhập cao, có tính ổn định thì NLĐ sẵn sàng làm việc. Họ quý trọng từng giờ, từng phút của thời gian làm việc, vì thời khắc trôi qua họ thấy tiếc chưa kịp làm việc và cống hiến, để có thể nhận được mức lương mà NSDLĐ trao cho.

Trong các nhân tố hình thành mức lương, thu nhập của NLĐ cần phải tính đến trình độ phức tạp của kỹ thuật và công nghệ mà NLĐ phải thực hiện. Vì thế, trong tổ chức lao động người ta mới chia thành những công việc mà NLĐ trước khi thực hiện phải được huấn luyện, đào tạo kỹ càng, chu đáo ở trường lớp. Thời gian đào tạo là thước đo chung cho mọi trình độ và cấp độ đào tạo. Ngoài việc học lý thuyết, các học viên phải được thực hành, thực tế và cuối cùng là thực tập để làm quen và thuần thục với công việc.

Các công việc càng phức tạp, càng nhiều kỹ thuật mới… NLĐ càng cần thực tập, thực tế trước khi chính thức làm việc. Vấn đề thực tập không những không tách với các khâu của đào tạo, mà còn trở thành yêu cầu bắt buộc, một bài tập lớn mà các thành viên phải đạt được. Thời gian thực tế, thực tập được tính chung vào thời gian được đào tạo và do đó, tính vào quỹ thời gian cần thiết để hoàn thành toàn bộ quá trình đào tạo.

Thực trạng tiền lương, thu nhập, đời sống của người lao động Việt Nam
Năng suất lao động cao giúp người lao động có được mức lương cao, điều đó phụ thuộc vào khả năng công nghệ của doanh nghiệp và tay nghề của người lao động. Trong ảnh: Dây chuyền sản xuất TV Vsmart hiện đại của Nhà máy tivi Vsmart (KCN Hòa Lạc, Hà Nội).

Định mức lao động cũng là nhân tố có liên quan rất nhiều đến đơn giá trả lương mà NLĐ là người nhận và NSDLĐ là người trả. Có hai biểu thức trực tiếp liên quan đến đơn giá trả lương: đơn giá tính theo mức sản lượng và đơn giá tính theo mức thời gian. Vì mức thời gian là nghịch đảo của mức sản lượng, nên chung quy lại, dù tính như thế nào thì đơn giá tiền lương cũng sẽ tỷ lệ thuận với số đơn vị thời gian cần thiết để sản xuất một đơn vị sản phẩm, hàng hóa, một công việc; hoặc tỷ lệ nghịch với số đơn vị sản phẩm, hàng hóa, công việc được hoàn thành, được chế tạo tức là được nghiệm thu trong một đơn vị thời gian.

Hay nói ngắn gọn là: đơn giá tiền lương tỷ lệ thuận với mức thời gian và tỷ lệ nghịch với mức sản lượng. Trong một đơn vị thời gian, NLĐ càng làm ra được nhiều sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ thì đơn giá trả lương cho một đơn vị sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ ấy càng thấp (chi phí thấp, hạ giá). Cũng tương tự như vậy, nếu thời gian cần thiết để hoàn thành một đơn vị sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ càng lớn thì đơn giá trả lương càng cao. Như vậy định mức lao động (gọi đúng là định mức) sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến số tiền lương mà NSDLĐ trả cho NLĐ. Đồng thời. Định mức lao động cũng ảnh hưởng đến việc chấp hành kỷ luật thời gian làm việc và việc tận dụng thời gian làm việc của NLĐ.

Một số nguyên nhân mức lương của NLĐ còn thấp

Hiện mức lương bình quân mà NLĐ nhận được ở hầu hết các doanh nghiệp, các KCN ở Việt Nam là thấp. Việt Nam có trên 300 KCN, KCX, KKT đang sử dụng trên 10 triệu lao động. Mức lương bình quân thấp chưa đến 5 triệu đồng/người/tháng, ngoài yếu tố trình độ khoa học, công nghệ, tay nghề, chất xám... của NLĐ thấp, còn do một số nguyên nhân sau:

Thiết kế mức lương tối thiểu thấp: Mức giá một số hàng hóa tiêu dùng (sinh hoạt) được chọn để tính trong mức lương tối thiểu là thấp, chậm được xem xét điều chỉnh theo thị trường. Cũng có một số mặt hàng chưa được chính thức đưa vào để tính lương tối thiểu, để đảm bảo việc tính đúng tính đủ chẳng hạn chi phí cho việc dùng điện thoại, đóng phí bảo hiểm, trả cho các chi phí học hành mặc dù giá ngày một cao, nhưng cũng ít được điều chỉnh để tính vào lương.

Thực trạng tiền lương, thu nhập, đời sống của người lao động Việt Nam
Ngoài học lý thuyết, người lao động phải có quá trình thực tập, rèn luyện thực tế mới có thể nâng cao tay nghề, qua đó nâng cao thu nhập. Trong ảnh, công nhân Công ty PouYuen (TP. HCM) được đào tạo nghề điện để phục vụ công việc tại công ty

Việc vận dụng mức lương tối thiểu của doanh nghiệp, ở một số nhà đầu tư, một số người làm quản lý lao động chưa thỏa đáng. Có tình trạng NSDLĐ lợi dụng tình trạng dư cung của thị trường lao động Viêt Nam, o bế, chèn ép người cung ứng sức lao động với mức giá thấp hơn, những điều kiện làm việc thấp hơn, trốn tránh một số nghĩa vụ phải thực hiện với NLĐ theo thỏa thuận; cắt xén những chi phí để giảm bớt gánh nặng (theo họ) cho doanh nghiệp; mặc dù họ luôn nói “các bạn là nguồn lực quan trọng nhất của doanh nghiệp chúng tôi”.

Một số chủ doanh nghiệp và người quản lý doanh nghiệp lợi dụng biến mức lương tối thiểu thành mức lương bình quân (tức mức lương trung bình) của doanh nghiệp. Trong thực tế, nhiều doanh nghiệp cũng đã làm như thế này, và như vậy, họ đã lấy mức lương tối thiểu đạt được qua đấu tranh căng thẳng, kiên trì của Hội đồng Tiền lương Quốc gia thành mức lương trung bình đạt được của các doanh nghiệp; và những phần trăm tăng thêm của mức lương tối thiểu đạt được sẽ đồng thời là phần trăm đạt được của mức lương tối thiểu mới (hoặc mức lương trung bình mới). Hiện tượng “lập lờ” thế này là phổ biến. Mức lương tối thiểu không phải là mức lương trung bình của doanh nghiệp. Trên thực tế mức lương tối thiểu luôn thấp hơn mức lương trung bình của doanh nghiệp. Thế là chỉ cần một vài động tác “lắt léo”, họ cũng đã góp phần tiết kiệm cho doanh nghiệp một khoản chi lương khá lớn, mà lẽ ra doanh nghiệp trên thực tế phải chi trả cho NLĐ. Có nghĩa là họ đã cắt bớt mức lương mà NLĐ lẽ ra được hưởng. Đó là hiện tượng ít bị để ý, bị phát giác.

Một số doanh nghiệp “phớt lờ” kỳ “nâng lương” cho NLĐ. Có nhà quản lý doanh nghiệp lấy kết quả đạt được từ phiên họp của Hội đồng Tiền lương Quốc gia làm kết quả nâng lương cho NLĐ. Đây cũng là một kiểu “lập lờ” trong quản lý lao động tiền lương. Điều chỉnh mức lương tối thiểu của Hội đồng Tiền lương Quốc gia không phải là một kỳ nâng lương, mặc dù có đề cập đến mức lương được điều chỉnh. Giải pháp đúng là điều chỉnh mức lương tối thiểu, chứ không phải kỳ nâng lương. Một khi mức lương tối thiểu còn khoảng cách với mức sống tối thiểu thì NSDLĐ (nhà quản lý) phải có trách nhiệm điều chỉnh lên cho ngang bằng. Đây tuyệt nhiên không thể gọi là kỳ nâng lương. Như vậy việc xác định thời hạn nâng lương, cũng là trách nhiệm của NSDLĐ. Trong trường hợp này, NLĐ có thành tích, có kết quả làm việc tốt, có ý thức kỷ luật phải được đề xuất để nâng lương (có thể nâng lương đột xuất, nhưng thường là nâng lương định kỳ) để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng của họ. Chính Công đoàn phải là người đấu tranh để giúp NLĐ đạt được điều này. Vì thế, trên thực tế có NLĐ cùng lúc đạt được hai lợi ích: Lợi ích do được điều chỉnh lương tối thiểu; lợi ích do họ vừa đến kỳ được nâng lương.

Thực trạng tiền lương, thu nhập, đời sống của người lao động Việt Nam trong khu vực sản xuất kinh doanh
Mức lương của người lao động Việt Nam hiện còn thấp một phần do một tỷ lệ lớn người lao động vẫn làm các công việc giản đơn. Trong ảnh, Hoàn thiện sản phẩm mây tre đan xuất khẩu ở làng nghề Phú Túc, huyện Phú Xuyên (TP. Hà Nội)

Mức lương tối thiểu phải đáp ứng được các nhu cầu chính đáng tối thiểu

Về tổng thể, mức lương nói chung (bắt đầu từ mức lương tối thiểu) hiện còn quá thấp, chưa đảm bảo được yêu cầu tái sản xuất giản đơn và do đó cũng không bảo đảm tái sản xuất mở rộng sức lao động. Có thể khẳng định, cả theo lý thuyết cũng như thực tiễn, các mức lương tối thiểu phải đáp ứng được các yêu cầu chính đáng tối thiểu sau của NLĐ: 1. Tái sản xuất sức lao động thông qua lương mà NLĐ có được từ việc sử dụng tiền lương của mình, mua các hàng hóa tiêu dùng trên thị trường. Thuật ngữ tái sản xuất sức lao động ở đây gồm cả tái sản xuất lao động giản đơn và sau đó là tái sản xuất mở rộng sức lao động. 2. Có một phần (chiếm từ 20 đến 30% mức lương tối thiểu) để NLĐ nuôi thêm một người ăn theo. Tức là nuôi con. 3. Một phần để giúp NLĐ phát triển tri thức. Yêu cầu phát triển trí tuệ cũng là một đòi hỏi tất yếu. 4. Một phần để tích lũy. Phần này tùy thuộc vào độ lớn của mức lương tối thiểu thực tế, và tỷ lệ giữa phần sử dụng tiền lương cho tiêu dùng cá nhân và phần tích lũy. Dù mức lương có như thế nào, giá trị thực của đồng tiền có thể biến động, nền kinh tế có thể trồi sụt… nhưng đặc điểm hoạt động thực tiễn của con người vốn vẫn là làm việc - thu nhập - tiêu dùng và tích lũy.

Tóm lại, thành tựu về kinh tế những năm đổi mới vừa qua là rõ ràng về tiền lương, thu nhập, giúp đời sống của NLĐ được cải thiện nhiều. Rất nhiều trong số nguồn nhân lực quốc gia đã được thu hút vào công nghiệp và dịch vụ. Tiền lương có vai trò rất quan trọng trong điều phối lực lượng lao động. Tuy nhiên, tiền lương, thu nhập, đời sống của NLĐ làm công ăn lương vẫn còn đặt ra nhiều vấn đề gay gắt, bức xúc. Vì vậy, xem xét điều chỉnh, nâng lương tối thiểu để có căn cứ tăng lương và nâng cao đời sống cho NLĐ là yêu cầu cấp thiết khách quan hiện nay.

Chính sách tiền lương có hiệu lực từ tháng 8, người lao động nên biết Chính sách tiền lương có hiệu lực từ tháng 8, người lao động nên biết

Từ tháng 8/2021, Thông tư 03/2021 và Thông tư 02/2021 của Bộ Nội vụ quy định nhiều điểm mới trong chế độ tiền lương đối ...

Đàm phán tiền lương hiệu quả - đòn bẩy của sự phát triển thị trường nội địa Đàm phán tiền lương hiệu quả - đòn bẩy của sự phát triển thị trường nội địa

TS Chang-Hee Lee, Giám đốc ILO Việt Nam, cho rằng, tiền lương chính là đòn bẩy để mở rộng thị trường nội địa và tạo ...

Cải cách tiền lương cho người lao động hướng tới mức lương đủ sống Cải cách tiền lương cho người lao động hướng tới mức lương đủ sống

Theo quan điểm của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO): “Tiền lương tối thiểu (TLTT) là mức trả công thấp nhất cho người lao ...

Tin mới hơn

Lý luận gắn với thực tiễn theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Lý luận gắn với thực tiễn theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh luôn rất coi trọng lý luận, việc học tập lý luận của cán bộ, đảng viên và toàn thể nhân dân.
Tăng cường khối đoàn kết xây dựng Đảng vững mạnh theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh

Tăng cường khối đoàn kết xây dựng Đảng vững mạnh theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh

Đoàn kết, gắn bó chặt chẽ nhằm phát huy sức mạnh của cộng đồng để chống thiên tai và ngoại xâm là truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam. Đến Hồ Chí Minh thì “Đại đoàn kết được xây dựng trên cả một lý luận chứ không còn đơn thuần là tình cảm tự nhiên của người trong một nước phải thương nhau cùng” , nghĩa là, trong tư duy lý luận của Hồ Chí Minh, tư tưởng đại đoàn kết được hình thành và phát triển trên một nền tảng lý luận khoa học và thực tiễn hết sức phong phú, sâu sắc.
Phát huy nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách trong công tác xây dựng Đảng

Phát huy nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách trong công tác xây dựng Đảng

Học tập và vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, từ khi thành lập Đảng đến nay Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng nguyên tắc tập trung dân chủ, coi đó là nguyên tắc số một trong xây dựng Đảng. Trong điều kiện Đảng cầm quyền ở nước ta, biểu hiện cụ thể của nguyên tắc đó chính là nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Đây vừa là một nguyên tắc trong hoạt động lãnh đạo của Đảng, vừa là một nội dung biểu hiện của nguyên tắc tập trung dân chủ. Nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách góp phần xây dựng Đảng vững mạnh trên cả ba mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức.

Tin tức khác

Những giá trị lý luận về phong trào cách mạng và Đảng Cộng sản ở Việt Nam của đồng chí Nguyễn Đức Cảnh

Những giá trị lý luận về phong trào cách mạng và Đảng Cộng sản ở Việt Nam của đồng chí Nguyễn Đức Cảnh

Nguyễn Đức Cảnh sinh ra và lớn lên trong một gia đình nhà nho nghèo, được người cha dạy chữ, được tiếp thu truyền thống yêu nước của quê hương, gia đình, dòng họ; lớn lên trong bối cảnh đất nước lầm than, bị ngoại bang đô hộ, lại sớm được đọc và chịu ảnh hưởng của một số tác phẩm, bài viết của Nguyễn Ái Quốc, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh - những nhà yêu nước Việt Nam.
Vai trò của đồng chí Nguyễn Đức Cảnh trong việc sáng lập và lãnh đạo Tổng Công hội Đỏ Bắc Kỳ

Vai trò của đồng chí Nguyễn Đức Cảnh trong việc sáng lập và lãnh đạo Tổng Công hội Đỏ Bắc Kỳ

Tổng Công hội Đỏ Bắc Kỳ, tổ chức tiền thân của Tổng LĐLĐ Việt Nam ra đời ngày 28/7/1929 là kết quả tất yếu của phong trào công nhân, là thắng lợi của đường lối công vận của Đảng ta và đáp ứng yêu cầu bức thiết của phong trào công nhân đang phát triển mạnh mẽ, đánh dấu sự trưởng thành về tổ chức của giai cấp công nhân Việt Nam.
Đồng chí Nguyễn Đức Cảnh và những cống hiến lịch sử thúc đẩy Cách mạng Việt Nam

Đồng chí Nguyễn Đức Cảnh và những cống hiến lịch sử thúc đẩy Cách mạng Việt Nam

Trở về Hà Nội từ Quảng Châu (Trung Quốc) sau khi đã nghiên cứu, tìm hiểu và gia nhập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, Nguyễn Đức Cảnh chính thức ly khai khỏi Nam Đồng Thư xã (lúc này đã chuyển thành Việt Nam Quốc dân Đảng) và hoạt động trong tổ chức Thanh niên Bắc Kỳ với việc bí mật tổ chức in ấn tài liệu tuyên truyền trong các nhà máy, hầm mỏ để giác ngộ quần chúng công nhân.
Di sản vượt thời gian của đồng chí Hoàng Quốc Việt

Di sản vượt thời gian của đồng chí Hoàng Quốc Việt

“Làm chủ không phải là khẩu hiệu suông. Làm chủ là phải làm chủ được sản xuất, làm chủ đời sống - cả chỗ ở, chỗ học, chỗ nghỉ… Đó là tư tưởng xuyên suốt của bác Hoàng Quốc Việt khi giữ cương vị đứng đầu Tổng Công đoàn Việt Nam” - ông Nguyễn Túc, nguyên thư ký riêng của đồng chí Hoàng Quốc Việt, khẳng định.
Vẹn nguyên tinh thần của lãnh tụ Nguyễn Đức Cảnh

Vẹn nguyên tinh thần của lãnh tụ Nguyễn Đức Cảnh

Trong tiến trình lịch sử cách mạng Việt Nam, giai cấp công nhân và báo chí cách mạng đã đóng vai trò then chốt trong việc thúc đẩy những chuyển biến sâu rộng của xã hội, đặc biệt là trong cuộc đấu tranh chống ách đô hộ của thực dân Pháp và quá trình giải phóng dân tộc. Đóng góp quan trọng trong công cuộc này không thể không nhắc đến đồng chí Nguyễn Đức Cảnh, một trong những lãnh tụ tiêu biểu của phong trào công nhân Việt Nam, đồng thời là người sáng lập và lãnh đạo tổ chức Công đoàn Việt Nam.
Công đoàn Việt Nam: 96 năm son sắt một sứ mệnh tiên phong

Công đoàn Việt Nam: 96 năm son sắt một sứ mệnh tiên phong

Trải qua 96 năm hình thành và phát triển, gắn liền với những chặng đường đấu tranh cách mạng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của dân tộc, Công đoàn Việt Nam luôn khẳng định vị thế là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân, là chỗ dựa tin cậy của người lao động và là cơ sở chính trị - xã hội vững chắc của Đảng và Nhà nước ta.
Xem thêm