Để có đủ sĩ số cho ngày khai trường, các thầy cô, nhất là bậc tiểu học, phải “ra quân” từ nhiều ngày trước. Có người đi bộ hàng chục cây số vào tận bản, có người phải tự bỏ tiền túi mua bánh kẹo, quần áo, dép mới để làm “dân vận” - mong học trò trở lại lớp.
Thế nhưng, đưa được các em đến trường chưa phải là đã xong. Chỉ sau vài tuần học, có em lại nghỉ để trông em nhỏ, có em phải ở nhà mang cơm lên rẫy cho cha mẹ. Không ít học sinh lớp 4, lớp 5 đã trở thành “lao động chính” trong gia đình, gánh việc nhà, việc nương rẫy như người lớn.
Đó là những rào cản lớn nhất trong hành trình duy trì sĩ số và nâng cao chuyên cần ở các trường miền núi, vùng biên giới. Và cũng là nỗi trăn trở của những người thầy, người cô - những “người đi bắt học trò” giữa núi rừng.
Ở các xã miền núi, biên giới, bức tranh giáo dục phổ thông vẫn gắn liền với những “điểm trường lẻ” nằm chênh vênh giữa núi rừng. Để giữ chân học trò, ngành Giáo dục buộc phải mở thật nhiều điểm trường nhỏ, tách xa trường chính hàng chục cây số. Đa số các em đều là con nhà nghèo, thậm chí rất nghèo - bữa cơm sáng nhiều khi chỉ là củ sắn, nắm cơm nguội.
Trước thực tế ấy, thời gian gần đây, nhiều địa phương đã triển khai xây dựng các trường bán trú và nội trú dành cho học sinh tiểu học, trung học cơ sở vùng miền núi, biên giới. Mỗi công trình có quy mô lên tới cả trăm tỷ đồng, được kỳ vọng là “điểm tựa học đường” mới cho những vùng khó.
Tin vui về một ngôi trường mới giữa rẻo cao khiến lòng người hân hoan. Bởi ở nơi mà một lớp học kiên cố cũng là mơ ước, thì một ngôi trường hàng trăm tỷ đồng như gieo niềm tin vào tương lai, vào con đường thoát nghèo bắt đầu từ con chữ.
Thế nhưng, ngay chính ở những nơi chuẩn bị đón trường mới, tiếng trống hân hoan ấy lại xen lẫn không ít băn khoăn. Các thầy cô cắm bản – những người hiểu rõ nhất thực tế giáo dục vùng cao – đều lo lắng rằng, trường càng to, càng khó “bắt” đủ học sinh.
Một thầy giáo là thạc sĩ quản lý giáo dục, đang giảng dạy tại xã vừa khởi công dự án, chia sẻ: “Học sinh trong một xã thì không đủ để học hết cơ ngơi như thế, mà huy động học sinh ở các xã khác trong vùng về học tập trung là rất khó, nếu không nói là bất khả thi. Về độ tuổi, các cháu tiểu học rất khó xa nhà. Nếu không khó khăn thì đã không có hệ thống điểm trường lẻ rải rác như hiện tại”.
Không chỉ giáo viên, chính quyền địa phương cũng mang nỗi lo lắng tương tự. Một cán bộ xã nơi đang được khảo sát xây trường quy mô hàng trăm tỉ đồng nói: “Việc xây một ngôi trường đồ sộ với số vốn đầu tư lớn hàng trăm tỉ đồng có thể sẽ phải đối diện với nguy cơ nhiều phòng học bỏ không vì không có học sinh. Học sinh cấp 1, cấp 2 ở miền núi rất khó để di chuyển đi học xa bán kính lên đến 15 - 20 km”.
Một số thầy cô tâm huyết với giáo dục vùng cao, cùng các chuyên gia giáo dục uy tín, đều chung một trăn trở: trong bối cảnh ngân sách còn hạn hẹp, nguồn lực khó khăn, thì nguồn lực hàng trăm tỉ đồng cho một ngôi trường lớn nên được chia nhỏ để xây dựng, sửa chữa hàng chục điểm trường còn tạm bợ – nơi “trường chưa ra trường, lớp chưa ra lớp”. Như vậy thì lợi ích mang lại cho học sinh sẽ thực chất hơn.
Khởi công trường to là điều rất đáng mừng, nhưng hy vọng sau niềm hân hoan sẽ không còn tái diễn hình ảnh những phòng học bỏ hoang.
Thực tế, chỉ cần gõ cụm từ “xây trường hàng chục tỉ rồi bỏ hoang” trên Google, hàng trăm kết quả sẽ hiện ra - phản ánh một thực trạng không còn cá biệt.
Hy vọng những ngôi trường mới không chỉ đẹp trong ngày khánh thành, mà còn ấm áp tiếng cười, tiếng học bài của học sinh mỗi ngày. Hãy để mỗi viên gạch được đặt xuống thật sự chạm đến giấc mơ học hành của trẻ em.
Đọc nhiều
Tin tức khác
Người về từ đại dương
Để có năng lượng sạch, trước tiên phải có môi trường đầu tư sạch
Sau lưng là thành phố
Giáo dục bằng tình thương
Phải truy trách nhiệm “chợ trên quốc lộ”